Nguyễn Kiến Thiết phỏng vấn GS Trần Văn Khê về dân ca miền Nam

Nguyễn Kiến Thiết

0 122

Nhận lời mời của Hội AHCHS Trung học Mỹ Tho, GS Trần Văn Khê đã đến Montréal nói chuyện về Âm Nhạc Tài Tử Miền Nam tại nhà hàng Lotté Furama vào tối thứ bảy 13 tháng 10 năm 2001. Về tiểu sử của nhà dân tộc âm nhạc học lừng danh nầy, người viết không thể giới thiệu đầy đủ trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo. Muốn biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của Giáo sư, mời bạn đọc tham khảo các tư liệu như: HỒI KÝ TRẦN VĂN KHÊ I, II, III, IV (Nxb. Trẻ. TP Hồ Chí Minh 2001); Lá Thư Sàigòn của Người Tân Định (Thời Báo số 545 ngày 09/06/2000)…Tuy nhiên chúng tôi xin được nêu lên vài chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của nhà “truyền đạo nhạc” nầy.

Trong lời tựa cuốn Hồi Ký Trần Văn Khê I, tác giả có viết: “Tôi may mắn được sanh ra trong một gia đình có bốn đời nhạc sĩ, nhưng nếu không nhờ người cậu thứ năm và má tôi thực hiện việc giáo thai bằng âm nhạc, chưa chắc tôi đã có được ngọn lửa tình yêu âm nhạc nung nấu trong lòng như ngày nay (…) Trong mọi việc làm thì không vì danh hay vì lợi mà chỉ vì tình, tình đối với người thân, với dân tộc, đất nước, và rộng hơn nữa là với nhân loại”. Ngoài ra thiết tưởng cũng nên bổ sung một số chi tiết về bậc đại sư phụ… thứ dữ nầy.

Năm 1954, GS Trần Văn Khê đã phổ nhạc bài thơ “Đi chơi chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, con của học giả kiêm nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh (đừng lầm với bài “Chùa Hương” của Hoàng Quý, anh ruột nhạc sĩ Tô Vũ).

Năm 1958 khi chủ biên bộ “Bách Khoa Tự Điển Âm Nhạc Thế Giới” Gs đã dành ra 9 trang để viết về âm nhạc Việt Nam.

Năm 1959, Gs. Khê lại được mời viết cho bộ “Từ Điển Âm Nhạc Đông Nam Á” với chuyên mục Trung Quốc, Nhựt Bổn, Triều Tiên, Việt Nam.

Năm 1975, Gs đã được Đại học Ottawa trao bằng Tiến sĩ danh dự về âm nhạc.

Năm 1999, Gs cũng được Đại học Moncton trao thêm một bằng Tiến sĩ danh dự về âm nhạc học nữa.
Những năm gần đây, thỉnh thoảng có xuất hiện những bài viết của Giáo sư trên mặt báo Sàigòn được Người Tân Định nhận xét rất xác đáng: “Ông viết cũng như ông nói, thắm đượm cái chất mộc mạc, giản dị của quê hương Nam Kỳ, phảng phất giọng điệu của Hồ Biểu Chánh ngày trước và Sơn Nam sau này”[*]. Trở lại vấn đề, vì chương trình buổi nói chuyện dự liệu không có phần đặt câu hỏi nên tôi đã viết sẵn một lá thư để kính nhờ Giáo sư trả lời hai câu hỏi về Dân ca miền Nam.

Để quý bạn đọc tiện theo dõi, tôi xin ghi ra nội dung lá thư ấy như sau:

Thưa Giáo sư Trần Văn Khê kính mến,

Đã từ lâu, tôi là người rất hâm mộ và kính phục Giáo sư, một nghệ sĩ đa tài, một nhà âm nhạc học lừng danh, một sứ giả văn hóa, một học giả uyên bác có cái đáng kính của một đại lão sư phụ và cái thân mật của ông thầy giáo làng đáng yêu đáng quý.

Đây là lần thứ hai tôi được may mắn nghe Giáo sư nói chuyện về âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Đề tài nầy chắc chắn sẽ đem lại cho tôi cũng như tất cả cử tọa những khám phá bất ngờ và lý thú. Lần thứ nhứt tại Viện Đại Học Cần Thơ, Giáo sư đã thao thao bất tuyệt “miệng nói, tay đờn, chân gõ nhịp”, giảng giải từ ngọn nguồn lạch sông, phân tích rạch ròi chân tơ kẽ tóc suốt ba tiếng đồng hồ về “cái gõ nhịp song lang và cây đờn bầu”. Riêng về tính năng của cây đờn bầu, Giáo sư đã giải thích một cách đơn giản nhưng dễ hiểu, đó là “tiếng lòng của dân tộc, một dây nhưng thống nhứt, réo rắt đầu nầy nhưng trầm ấm đầu kia”.

Thưa Giáo sư,

Đã từ lâu tôi hằng để tâm nghiên cứu và đã từng giảng dạy về ca dao miền Nam nhưng dưới cái nhìn của người nghiên cứu văn học hơn là nghiên cứu âm nhạc. Theo nhạc sĩ Phạm Duy, dân ca dân nhạc miền Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng dân nhạc Chàm và dân nhạc Khmer nên mang tính chất buồn và nằm trong hệ thống ngũ cung oán. Nói khác đi hầu hết những thể ca của dân ca miền Nam như: Hát ầu ơ (tức hát ru), nói thơ, nói vè, nói Lô tô, các điệu hò, điệu lý và ngay cả điệu hò lờ v.v., giai điệu đều nằm trong ngũ cung hơi Nam giọng oán (2). Hôm nay được gặp lại Giáo sư lòng tôi mừng vui như mở hội, như cá gặp nước, như rồng gặp mây.Thật là phỉ nguyền mơ ước! Kính mong Giáo sư vui lòng giải đáp các câu hỏi sau đây:

Nhận xét của nhạc sĩ Phạm Duy trên đây có hữu lý và xác đáng hay không? Nói khác đi hầu hết các thể loại dân ca miền Nam đều dùng hệ thống ngũ cung hơi Nam giọng oán?

Miền Nam có rất nhiều điệu hò như: Hò Cần Thơ, hò Vĩnh Long, Hò Bến Tre, hò Gò Công, hò Tân An, hò Đồng Tháp, v.v… Làm thế nào phân biệt được các điệu hò kể trên? Thành thật cám ơn Giáo sư và kính chúc Giáo sư luôn khỏe mạnh, sống lâu để đóng góp không ngừng vào việc đề cao và phổ biến di sản văn hóa dân tộc và nhân loại.

Montréal (Canada) ngày 13 tháng 10 năm 2001

Một người yêu thích dân ca dân nhạc Miền Nam

Nguyễn Kiến Thiết

Sau gần một tuần lễ đợi chờ trong hy vọng, may mắn làm sao, vào lúc 9 giờ tối thứ sáu ngày 19/10/2001, qua sự sắp xếp của Bà Trần Ngọc Sương – bào muội của Giáo sư, tôi được GS Trần Văn Khê trả lời các câu hỏi chánh và một câu hỏi phụ được tóm lược như sau:

TVK đáp câu 1:

Đại đa số nó không phải là hơi Nam hay là hơi oán gì hết. Đại đa số là nó dính liền với cấu trúc của tiếng hát ru của bà mẹ. Tỉ như:

Ầu ơ … Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo, ờ ơ ớ… gập ghình khó đi ớ, ơ, ơ, ớ…

Đó là cấu trúc của thang âm miền Nam Việt Nam trong điệu oán. Tất cả những vùng gần gần đó đại đa số đều giống như thế. Cho nên từ câu hò tới lý con sáo cho tới bài vọng cổ cấu trúc đều giống như thế. Tuy nhiên không phải bài nào cấu trúc cũng giống như vậy.

Tỉ như Lý quạ kêu, không phải là điệu Nam nữa:

Quạ kêu cái mà quạ kêu
Quạ kêu nam đáo, tắc đáo nữ phòng
Người dưng khác họ, chẳng nọ thời kia
Nay dìa (về) mai ở. Ban ngày mắc cở tối ở quên dìa (về) …

Lý cây bông, Lý Cái Mơn thì giọng cũng khác nữa.

Cho nên nếu mà nói tất cả những điệu ca ở Nam Bộ đều dùng hệ thống ngũ cung hơi Nam giọng oán thì hơi quá một chút. Nhưng mà ĐẠI SA SỐ THÌ ĐÚNG.

TVK đáp câu 2:

Làm thế nào phân biệt được những câu hò khi thì ở Đồng Tháp, khi thì ở Bến Tre, khi thì ở Cần Thơ?

Trong một bài hò luôn luôn có những câu như câu kể và câu xô. Câu kể do người hò gọi là hò mái, hò cái. Câu xô là hò con. Câu kể và câu xô tức cái với con, cũng như âm với dương. Câu xô mỗi nơi mỗi khác.

Câu xô trong hò Đồng Tháp: Hòa hơi… không có chỗ nào có. Câu xô trong Hò Bến Tre: Ờ ớ ơ ơ ớ ơ …

Ngoài ra, câu xô ở Bến Tre còn có điệu hò lý. Hết một câu thì tất cả câu xô:

Hò xự xang hò xang xê cống
Cống xê xang (là) xang xế hò
Hò xự xang
Hay: Hò hố khoan bống trống bởi bang Hò xang xế xự, quân tử tồn (là) xự xế xang.

Câu đó chỉ có Bến Tre có thôi.

Câu xô trong hò Cần Thơ giọng không lên cao tức hò liu:

Hò hơ hớ hơ.. Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Đất nào dốc bằng đất Nam Vang; Một tiếng ai than hai hàng lụy nhỏ ơ ơ ơ…
Có chút mẹ già biết bỏ ai nuôi.

Câu xô khác nhau làm cho người ta biết được câu hò đó ở tỉnh nào. Đại khái cấu trúc của nó cũng lọt vô tiếng hát ru của bà mẹ. Rồi rốt cuộc hò Đồng Tháp, hò Bến Tre tới chừng đi ra câu kể thì nó cũng gần giống như điệu hát ru. Có điều khác hơn: Hát ru thì hò xang mà câu hò thì hò xư. Hò xang, hò xư như thế nầy:

Ầu ơ… Ví dầu con cá nấu canh (Hò xang).

Nhưng mà trong cải lương người ta biến hát ru thành ra trong câu hò (Hò xư chớ không phải hò xang):

Ờ ơ ơ …Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo ờ ơ ơ… gập ghình khó đi.
(Chỉ có khúc chót mới trở về hò xang. Khúc đầu là hò xư).

Trong cải lương không phải ru để cho em ngủ, mà ru cũng muốn cho người ta để ý mà nghe. Hò xư thêm hò xang để người ta không ngủ. Hò xang, hò xê êm tai quá thì người ta ngủ hết. Ngoài ra trên thế giới người ta nhìn nhận hai quãng tư và quãng năm là cơ bản đem lại sự bình tâm cho con người. Cho nên tất cả những tiếng hát ru trên thế giới đều không lọt khỏi hò quãng tư hay quãng năm. Riêng cái quãng ba (thiếu) Hò xư xư là quãng gợi cho người ta tìm cái hò xang làm cho họ thích. Cho nên trong cải lương mặc dầu hát ru họ cũng muốn người ta thích mà nghe chớ không phải ru để người ta ngủ hết là không được. Có điều người ta tưởng trong cải lương hát như vậy là hát hay nên tất cả những người ru em trong nhà cũng bắt chước theo hò. Ru như vậy là ru trật. Ru trật bởi vì bắt chước cải lương mà không hiểu tại sao cải lương hát như vậy. Thành ra câu hò vùng nầy vùng kia khác nhau vì hai lý do:

Thứ nhứt: tại câu xô (nhiều nhứt)

Thứ hai: Phong cách hát mỗi vùng mỗi khác. Tỉ như:

Hò Đồng Tháp nó lên cao xuống thấp xự xề xang xê ho.

Ơ ớ ơ ơ… Gặp mặt em đây không biết chừng nào anh gặp nữa.
Nầy bạn chung tình em có phân điều chi thì phân một bữa ơ ơ… cho tận tình…ờ (hò Mỹ Tho, hò Bến Tre).

Nhưng qua tới Đồng Tháp thì: cho tận… ờ ơ ơ… tình ờ… (Đồng Tháp đặc biệt chỗ đó).

Tất cả những cái đó là những cái cá biệt trong mỗi một chỗ nhưng chung qui những câu hò đối đáp trên sông, trên cạn gì cũng căn cứ trên tiếng hát ru của bà mẹ. Cái cấu trúc: Hò xự xang xê cống (Xự lên cao thành xư; xang thì già mà rung; cống thì non). Hệ thống đó gọi là hệ thống điệu Nam hơi Oán.

NKT: Như vậy thì tất cả đều là hơi Nam giọng oán phải không, thưa Giáo sư?

TVK: Phải rồi! Vọng cổ cũng là như thế đó. Vọng cổ hồi xưa ông Sáu Lầu đặt khác. Khi đưa ra dân chúng hát, họ chuyển theo tiếng hát ru của bà mẹ. Ông Sáu Lầu đặt:

Hò xê cống, xang xang xự xự
Xang xự cống xế xự xang xự
Xang xự cống xế xang hò Xự xang xế (là) hò xế hò.
Nhưng mà đưa ra dân chúng hát riết rồi bây giờ thành:

Hò xê cống xang xang xự xự
Xang xự cống xế xự xang xự
Xang xự cống xế xang hò Xự xang xế (là) hò xế hò.

Thì “Hò xự xang xê cống”, quần chúng đã chuyển cái đó thành hơi hát ru. Nhờ vậy mà người ta ưa thích.

NKT: Như vậy, hát ru bao trùm hết tất cả dân ca?

TVK: Không phải là bao trùm hết. Nó chính là nền tảng. Bởi vì người mẹ rót vào đầu đứa trẻ cấu trúc thang âm, điệu hát đó. Bây giờ lớn lên người nông dân muốn đi hát hò, muốn đi hát lý con sáo, lý này lý kia, cái căn bản âm nhạc ở đâu mà có? Họ không học ở trường lớp dạy âm nhạc nào, cũng không học ở conservatoire nào. Họ chỉ nhớ trong đầu bà mẹ hát ru làm sao thì lấy cái đó ra làm căn bản mà hát. Mỗi vùng đều như vậy hết. Giả tỉ như hát ru ở ngoài Bắc:

Ạ ời à ơi… Ru con con ngủ cho say
Mẹ mày vất vả ớ… chân tay tối ngày
Hò xự xang cống xang xang.

Bài “Mời giầu” của Quan họ:

Tay (á a …) em nâng cái cơi có đựng (à) giầu
Mắt em nhìn (nhìn) em liếc (liếc) em trông cái cơi có đựng (à) giầu.

thì cũng “Ạ ời à ơi … Ru con con ngủ cho say”.

Quan họ và những bài cơ bản trong dân gian cũng trùng với tiếng hát ru, kể cả ca trù. Câu đầu tiên trong hát ả đào:

Tính tinh tang, tình tính tinh tang
Hồng hồng tuyết tuyết, mới ngày nào chưa biết cái chi chi

thì cũng “Ạ ời à ơi… Ru con con ngủ cho say”.

Coi kỹ lại cái cấu trúc của tiếng hát ru nó in sâu vào trong đầu của đứa con trong mỗi vùng. Cho nên muốn hò hát nhưng không có cái gì làm căn bản, làm chất liệu, làm nền tảng, người nông dân chỉ lấy tiếng hát ru của bà mẹ ra mà hát rồi lần lần nhờ đó mới phát triển lên.

Miền Trung cũng vậy. Giả tỉ như hát ru Huế:

À ớ ơ … Ru em (mà) ru em à ớ ơ Ru em (em) théc cho muồi
Để mẹ đi chợ (mà) mua vôi ăn trầu.
Miền Trung có hai cái quãng tư: Tình tang, tang tính.

Người thanh niên ra bắt đầu chọc một cô gái đâu có biết cái gì khác hơn tiếng hát ru của bà mẹ. Chẳng hạn câu hát thai, trêu chọc đầu tiên:

Ờ ơ … Chẳng thà không thấy thời thôi
Chớ thấy rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn.

Từ hát ru của bà mẹ họ chuyển sang hát thai, hát tình, hát dạo, hát ghẹo, v.v…

Trong miền Nam không phải hết thẩy đều là điệu Nam hơi Oán. Điệu Nam hơi oán thật, nhưng mà thật ra không phải tại điệu Nam hơi oán. Bởi vì trong hát ru hay dân ca, họ đâu có biết gì về nhạc là nam hay oán, mà chỉ căn cứ trên cấu trúc tiếng hát ru của bà mẹ là điệu Nam hơi oán.

Tóm lại, nếu nói căn cứ trên tiếng hát ru của bà mẹ ở tại vùng đó mà tiếng hát ru thuộc về điệu Nam hơi oán thì đúng. Còn nói rằng dân ca ở vùng đó đều thuộc về điệu Nam hơi oán thì trật. Bởi vì dân ca đâu có học nhạc, đâu có biết điệu Nam điệu Bắc là gì, nó cứ hát là hát thôi.

Thành ra hai câu hỏi của em rất thú vị. Nếu viết ra thơ cũng không cắt nghĩa được, bởi vì không có giọng nói, không có minh họa cái nầy cái kia. Vì vậy không trả lời bằng thơ mà bằng điện thoại cho em.

NKT: (Câu hỏi phụ) Giáo sư trả lời bằng điện thoại rất là lý thú. Giáo sư nghĩ sao về Tương lai của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam?

TVK: Tương lai của nền âm nhạc dân tộc là tùy theo mình hết trọi. Tùy theo người dân trước, kế đó phải có xã hội, sau hết phải có chánh quyền nữa. Chánh quyền mà xao lãng, vọng ngoại, mở cửa cho bên ngoài nó vô đàn áp bên trong thì tự nhiên nó sẽ chết. Bên trong giống như người bịnh chưa có chích miễn dịch mà mở cửa để cho cái dịch bên ngoài nó nhảy đi vô làm sao chịu nổi. Chích miễn dịch rồi thì bên ngoài vô bao nhiêu cũng không sợ. Bây giờ chích miễn dịch mình chưa có tức là mình chưa trang bị cho thanh niên của mình có được một cái vốn dân tộc, yêu dân tộc và hiểu dân tộc. Bên ngoài nó đưa vô một cái hào nhoáng thấy chớp chớp áp nhau phục rồi tự nhiên thấy tự ti mặc cảm, cho tới bây giờ chưa gột rửa được. Thành ra bây giờ phải trang bị cho nó vững chắc. Gột cái tự ti mặc cảm rồi thì bên ngoài vô cũng không sợ. Như vậy bên trong mới phát triển. Làm sao cho người ta trở lại thương nhạc dân tộc. Cái đó là bịnh mãn tính. Phải trị căn chớ không phải trị chứng, tức là phải trị nó từ cái gốc. Tại sao phải làm như vậy?

Tại 100 năm nay bị chánh sách thuộc địa nó đưa văn hóa thuộc địa vô quảng cáo và đẩy lùi văn hóa mình vào bóng tối. Nó làm một cách nhẹ nhàng khéo léo đến đỗi mình thấy cái gì của phương Tây cũng hay hết (nhà Tây cũng tốt, trái cây của Tây, rượu Tây cũng ngon, cái gì của Tây cũng ngon hết thảy). Tự ti mặc cảm đủ thứ hết. Đờn piano, đờn violon thấy sang trọng quá. Còn cái đờn cò, đờn độc huyền của mình coi nó nghèo nàn. Thành ra, tất cả những cái đó là cái tự ti. Trong cái thô sơ của nó có cái giá trị rất lớn về mặt nghệ thuật, về mặt khoa học. Tự ti mới đẻ ra trong cái xã hội tất cả tổ chúc tự ti hết. Ca sĩ ca nhạc dân tộc được trả tiền rất rẻ, ca âm nhạc mới thì trả tiền rất nhiều, mà ca được nhạc Tây thì trả tiền rất cao. Thầy dạy nhạc dân tộc thì đi xe đạp, đi bộ. Thầy dạy piano, violon thì đi xe hơi. Tổ chức xã hội tiếp tục theo cái tự ti đó làm cho có sự hấp dẫn về kinh tế. So sánh giữa việc học nhạc dân tộc và học nhạc Tây thì đi học nhạc Tây sẽ kiếm tiền nhiều hơn. Cái đó là cái bịnh. Phải trị ngay từ gốc. Mà cái gốc nó bỏ hát ru mất rồi. Trẻ em không còn hát đồng dao nữa. Trẻ em được dạy hát toàn những bài do người đặt được đào tạo từ bên Tây hết. Trò chơi trên télévision là cho trẻ em vui chơi “Đồ rê mi fa sol, sol mi đồ”. Chưa biết nói tiếng Việt Nam, cho học tiếng Tây. Lớn lên đi ra ngoài vườn ngoài ruộng không còn hò hát nữa mà chỉ để cái transistor (tức radio) nghe hát nhạc mới tầm bậy tầm bạ. Tất cả những cái đó gọi là bịnh. Làm thế nào để chữa trị?

Thứ nhứt: Phải lập lại tiếng HÁT RU
Thứ hai: Phải cho trẻ em hát những bài ĐỒNG DAO
Thứ ba: Dựng lại các SINH HOẠT HÒ HÁT, ĐỐI CA
Thứ tư: ĐEM ÂM NHẠC VÔ HỌC ĐƯỜNG (Trong các trường Đại học, Trung học và Tiểu học).

Phải cho học sinh biết cái nó không biết cũng như phải cho nó biết Việt Nam có cái gì độc đáo. Rồi Đài phát thanh, Đài truyền hình phải dành cho nó có thì giờ nghe nói chuyện về âm nhạc dân tộc. Báo chí cũng ít đề cập đến nhạc dân tộc. Có người nào được giải thưởng bên Tây lại phục, quảng cáo rầm rộ. Còn người nào được giải thưởng dân tộc, ít người nói tới.

Nhạc cụ cũng vậy. Đóng đờn guitare thì đóng hàng loạt nhiều vô số kể. Còn đóng đờn bầu, đờn kìm thì rất ít mà giá rất mắc. Thành ra tất cả phải đồng bộ trở lại. Phải có những buổi nói chuyện làm cho người ta ý thức được giá trị của dân tộc mình. Khi người ta thương cái giá trị đó mới bỏ công tìm hiểu và gìn giữ nó. Ngoài ra chánh quyền cũng coi thường nhạc dân tộc. Cụ thể là ngân quỹ. Xin tiền để dựng một cái concerto theo Tây, chỉ một bài thôi, Bộ Văn Hóa có thể cho 68 triệu đồng. Khi muốn lập ra một ban nhạc dân tộc cả năm trời mà xin mười triệu còn không được chớ đừng nói tới 68 triệu. Dở là chỗ đó. Xã hội nó vậy đó. Cái xã hội mà hễ đá vô một trái banh trong “gôn” thì 30 triệu dám cho. Còn xin mua cả một giàn nhạc dân tộc 5-10 triệu không ai dám cho. Đó là do thiếu ý thức dân tộc. Thành ra bây giờ phải tổ chức trở lại, đổi cả trong xã hội, đổi cả cái nầy cái kia…

Coi như Nhựt Bổn, tất cả những người nào giữ vững nhạc dân tộc cổ truyền thì chánh phủ cho cái “quốc gia chi bửu”, mỗi năm được cho chút đỉnh tiền, thuốc uống khỏi trả tiền mà dân chúng kính nể vô cùng. Ở Ấn Độ, người nào giữ nhạc dân tộc, đi hát nhạc dân tộc mấy chục năm được chánh phủ cho một cái chức cũng y như vậy, được nguời ta tôn trọng. Triều Tiên cũng vậy. Những người nào hát nhạc dân tộc cũng được phong cái chức giống như ở Nhựt.

Còn Việt Nam, những người học nhạc dân tộc thiệt giỏi, đàng hoàng rồi thì chết đói, làm sao được? Cái đó phải hết sức trị từ gốc. Tôi đưa mấy thang thuốc đó phải uống hết mà phải đồng bộ. Có một thang nào không được là hỏng.

Chánh quyền ủng hộ mà dân chúng không nghe cũng hỏng
Dân chúng nghe mà chánh quyền không ủng hộ cũng hỏng
Tổ chức xã hội không theo cũng hỏng.
Đài phát thanh, Đài truyền hình, những tổ chức về âm nhạc, tất cả phải có ý thức. Nếu không có ý thức thì trước sau gì nó cũng chết. Mà nếu nó [tức âm nhạc dân tộc-NKT] chết thì mình mang tội với lịch sử.

NKT: Dạ thưa, những ý kiến Giáo sư mới vừa nói, Giáo sư đã có viết hoặc phát biểu ở đâu chưa?

TVK: Báo chí phỏng vấn tôi nói không biết bao nhiêu lần ở Việt Nam. Tôi cũng viết rất nhiều lần, nhưng mà điều bụt chùa nhà không thiêng. Tôi đi nói chuyện ở các nước khác, họ đều làm: Ba Tư nó làm, Nam Dương nó làm… Tất cả những chuyện gì tôi nói ở nước ngoài, người ta nghe và làm theo hết, còn trở về Việt Nam nói không ai nghe. Em còn hỏi điều gì nữa không?

NKT: Dạ, những câu trả lời của Giáo sư rất là quý báu, rất chí lý. Những điều Giáo sư vừa trình bày, giải thích rất là cặn kẽ. Xin thành thật cám ơn Giáo sư rất nhiều. Kính chúc Giáo sư luôn mạnh khỏe, sống lâu để cống hiến nhiều hơn nữa cho âm nhạc dân tộc.

TVK: Bữa nay em viết thơ nghe cảm động lắm. Cái thơ viết rất chân tình. Người hiểu biết là như vậy đó. Tôi đi nói chuyện rất nhiều nơi. Cái mà nói chuyện tôi không thích bằng chờ câu hỏi rồi trả lời. Mà trong câu hỏi có những đề tài rất thiết thực. Tôi nói cả đống chuyện đó, nhưng mà không bằng một hai chuyện nó “gãi đúng chỗ ngứa”.

Thay lời kết

Bài phỏng vấn trên đây được thực hiện vào năm 2001. Từ đó đến nay, chắc hẳn đã có những thay đổi cũng như cách nhìn về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát triển âm nhạc dân tộc. Chúng tôi tin chắc rằng trong nước chúng ta còn có những núi nhạc truyền thống cao đẹp như núi nhạc phương Tây đầy sức sống và tiềm ẩn những điều lý thú về mặt học thuật cần được tiếp tục nghiên cứu.

──────

[*] Người Tân Định: “Lá thư Sài Gòn”, Thời Báo số 545 ngày 09/06/2000.

Nguyễn Kiến Thiết
Montréal, quý Đông năm 2008
Nguồn: NAM KỲ LỤC TỈNH

Leave A Reply

Your email address will not be published.