Chuyện cái tên ‘Tàu’—nói hoài chưa hết

Đỗ Ngọc Giao

0 102

Dân ta quen gọi nước lân bang phía bắc là Tàu hơn 250 năm qua (như sẽ giải thích trong bài):

Chẳng xinh cũng thể đôi ta,

Chẳng thơm cũng thể là hoa ngâu Tàu.

Hỡi cô yếm trắng lòa lòa,

Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu,

Hay là lụa bạch bên Tàu,

Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài. (1)

Và đã hơn 150 năm từ khi Gia-định báo lần đầu tiên cắt nghĩa cái tên Tàu.[2] Gần đây có bài viết rằng mực tàu theo thời gian đã mất đi nghĩa cũ mà đổi sang nghĩa mới là ‘mực [của] Tàu’.[3]

Bài này tìm hiểu gốc tích hai tên gọi Tàu  mực tàu.

Những ‘từ’ Hán-ngữ trong bài sẽ ghi âm theo IPA (International Phonetic Alphabet) mà bỏ bớt ký hiệu ‘tone’ cho đỡ rối; thí dụ 福建 (Phước-kiến) ghi là fɵk̚ ken thay vì fɵk̚⁵⁵ ken³², đọc theo giọng Quảng-đông.[4]

1.    Khảo cứu

1.1.  Mực-tàu

Câu ‘minh văn’ 繩墨縱橫、斤斧雜遝 thằng mặc tung hoành, cân phủ tạp đạp—nghĩa là ‘thước mực giăng đầy, búa rìu chan chát’—khắc trên chuông chùa Thiên Phúc ở Hà Nội, đúc năm 1109,[5] có lẽ là dữ liệu sớm nhứt cho biết thợ mộc nước ta thời trào Lý đã dùng dây mực để vạch đường thẳng trên gỗ.

Cách dùng đó tới thế kỷ 20 vẫn còn (hình 1).

Hình 1. (a) cuốn chỉ vạch mực của thợ mộc, (b) thợ mộc nẩy dây mực.[6]

Ta chẳng rõ ‘cuốn chỉ vạch mực’ thời Lý gọi là gì, nhưng Chỉ-nam-ngọc-âm (thế kỷ 16–17) gọi là mực-tàu (chữ nôm 墨曺).[7]

Thợ mộc bên Tàu cũng xài ‘cuốn chỉ vạch mực’, mà họ tin là ông tổ Lỗ Ban của họ chế ra, gọi là 墨斗. Hình 2 cho thấy cái tên 墨斗 thông dụng khắp miền nam nước Tàu, với những ‘biến thể’ (variant) hiếm hơn như 墨斗子, 墨斗兒, 繩墨/绳墨, vân vân.

Hình 2.4

(Một biến thể của mặc-đẩu ở miệt Phước-kiến, thằng-mặc 繩墨, còn có nghĩa bóng là ‘mẹo mực’, ‘kiểu thức’, mà ở đây bỏ qua.)

Nhóm cư dân Đường-nhơn ở An-nam nước ta hồi cuối thế kỷ 7 có lẽ đọc 墨斗 là mək̚ təu; về sau mək̚ təu mượn vô tiếng ta mà trở thành mặc-đẩu.4 Dù vậy, dân ta một ít người có học mới biết những ‘từ’ như mặc-đẩu, còn phần đông thì chữ nhứt bẻ đôi cũng chẳng biết; nên thợ mộc nước ta ắt chẳng bao giờ kêu ‘cuốn chỉ vạch mực’ là mặc-đẩu.

Vậy họ kêu bằng gì?

Trở lại thời Chỉ-nam-ngọc-âm hồi thế kỷ 16–17, có lẽ ‘cuốn chỉ vạch mực’ vẫn là một món hàng mua ở Quảng-đông và cách đọc 墨斗 trong phương ngôn Quảng-đông hoặc các vùng khác bên Tàu thì cũng chẳng khác chi cách đọc thời nay, như sau.4

  • Quan-thoại: mu̯ɔ toʊ̯
  • Quảng-đông: mɐk̚ tɐu̯
  • Cám: mɛt̚ tɛu
  • Khách-gia: mɛt̚ teu
  • Tấn: miəʔ təu
  • Mân-bắc: mɛ te
  • Mân-đông: møyʔ tau
  • Mân-nam: bak̚ tau
  • Ngô: məʔ tɤ
  • Tượng: mɤ̞ təu̯

Theo đó, có thể suy ra rằng thương nhơn bên ta sang Quảng-đông mua ‘cuốn chỉ vạch mực’ đã học tên món hàng là mɐk̚ tɐu̯ đem về cho thợ mộc bắt chước gọi theo, lần hồi mɐk̚ tɐu̯ đọc trại ra thành mực-tàu.

Bảng 1: mực-tàu trong từ điển từ nửa sau thế kỷ 17 tới đầu thế kỷ 20.

từ điển cắt nghĩa mực-tàu
de Rhodes 1651[8] mực của thợ mộc dùng để kẻ đường thẳng trên gỗ.

nảy mực-tàu: làm dấu trên gỗ bằng dây và mực như thợ mộc quen làm.

Pigneau 1772[9] dây của thợ mộc (amussis)
de Morrone 1818[10] amussis; gỗ vạy chẳng ưa mực-tàu (tục ngữ)
Taberd 1838[11] amussis
Aubaret 1867[12]
de la Liraye 1874[13]
Taberd, Theurel 1877[14] amussis
J. M. J. 1877[15] dây mực (cordeau)
Ravier 1880[16] amussis
Petrus Ký 1887[17]
Kahn 1887[18]
Bonet 1890[19] dây giăng mực (cordeau)
Paulus Của 1896[20] nẻ mực; thẳng mực-tàu đau lòng gỗ (tục ngữ)
Génibrel 1898[21] dây của thợ mộc (cordeau des charpentiers); kéo mực (tirer le cordeau)
Vallot 1898[22]
de Beauregard 1900[23]
Ravier, Dronet 1903[24]
Maheut 1910[25]
Nordemann 1914[26]
Barbier 1920[27] dây giăng mực (cordeau); giăng mực (tracer au cordeau)
Khai Trí Tiến Đức 1931[28] dây mực; mực thẳng mất lòng cây gỗ cong (tục ngữ)
Lê Văn Đức et al 1970[29] lằn búng trước với nhợ nhúng mực hay thoa bột màu để cưa hay vẽ.

– không có dữ liệu.

Nói tóm lại:

  • mực-tàu có nguyên gốc là mɐk̚ tɐu̯, cách đọc chữ 墨斗 ở miệt Quảng-đông, mà dân ta bắt chước đọc trại ra.
  • mực-tàu trước sau vẫn giữ cái nghĩa là một món đồ nghề thợ mộc, có điều món đồ này ngày nay người ta gọi rõ là ‘chỉ vạch mực’ (hình 1) hay ‘dây/nhợ nhúng mực’ (Khai Trí Tiến Đức 1931, Lê Văn Đức et al 1970), để khỏi bị hiểu lầm là mực Tàu (mực của Tàu) sẽ nói tiếp theo đây.

1.2.  Mực Tàu

Pigneau (linh mục Bá-đa-lộc) lần đầu tiên năm 1772 ghi nhận Tàu là nơi làm ra hai món hàng bán qua nước ta lúc đó là mực và giẻ (lụa).

Bảng 2: những món hàng Tàu ở nước ta trong từ điển từ nửa sau thế kỷ 17 tới đầu thế kỷ 20.

từ điển mực những món hàng khác
de Rhodes 1651
Pigneau 1772 mực Tàu (atramentum sinicum) giẻ Tàu (sericum sinicum)
de Morrone 1818
Taberd 1838 mực Tàu (atramentum sinicum) giẻ Tàu (sericum sinicum)
Aubaret 1867 mực Tàu (encre de Chine) giẻ Tàu (soie de Chine);

chè Tàu (thé chinois);

giấy Tàu (papier chinois);

đá Tàu (granit);

bên Tàu (Chine)

de la Liraye 1874 chè Tàu (thé d’importation de Chine);

thuốc Tàu (médecines d’importation de Chine)

Taberd, Theurel 1877 mực Tàu (atramentum sinicum) giẻ Tàu (sericum sinicum);

đồ Tàu (res è Sinis aut ex Europa vel America importatae);

giấy Tàu (papyrus sinica/europaea)

J. M. J. 1877 mực Tàu (encre de Chine) đồ Tàu (objet chinois)
Ravier 1880 mực Ấn (atramentum indicum)*
Petrus Ký 1887 trà Tàu (thé chinois);

bún Tàu (vermicelle chinois);

sứ Tàu (frangipanier acuminé)

Kahn 1887 đồ Tàu (marchandises chinoises)
Bonet 1890 mực Tàu (encre de Chine) nước Tàu (Chine);

người Tàu (chinois);

hàng Tàu (marchandises chinoises)

Paulus Của 1896 thứ mực khô cứng làm bằng keo, khói [nước] Tàu; người Tàu; bên Tàu; đồ Tàu;

cam quýt Tàu; hành Tàu;

hàng Tàu: đại để hàng gì tốt, vật gì tốt đều gọi là của Tàu.

Génibrel 1898 mực Tàu (encre de Chine) đồ Tàu (objet chinois, marchandise d’importation quelconque)
Vallot 1898 mực Tàu (encre de Chine)
de Beauregard 1900 mực Tàu (encre de Chine) [nước] Tàu (Chine)
Ravier, Dronet 1903 đồ Tàu (chinoiserie);

người nước Đại-thanh (chinois)

Maheut 1910 [nước] Tàu (Chine)
Nordemann 1914 [nước] Tàu (Chine)
Barbier 1920 trà Tàu (thé de Chine);

đồ Tàu (chinoiserie);

người Tàu (chinois)

Khai Trí Tiến Đức 1931 Tàu: tên tục người Việt-nam gọi nước Trung-hoa
Lê Văn Đức et al 1970 mực Tàu hàng Tàu; thuốc Tàu; trà Tàu; vịt Tàu;

Ba-Tàu; bên Tàu; người Tàu; về Tàu

– không có dữ liệu.

* người phương Tây thường gọi mực Tàu (China ink) là ‘mực Ấn’ (India ink).

Bảng 2 cho thấy thời của de Rhodes (1651) chưa có tên gọi Tàu, nhưng, hai trăm năm sau, qua thời Aubaret (1867), dân ta đã quen với đủ thứ hàng từ bên Tàu đem qua, tới nỗi Gia Định báo lần đầu tiên năm 1870 phải viết bài cắt nghĩa cái tên Tàu này.2 Ngay cả những gì chẳng phải của Tàu, dân ta cũng gọi luôn là Tàu, thí dụ cây sứ lá nhọn bông trắng Plumeria lancifolia gọi là sứ Tàu để phân biệt với sứ Nam bông đỏ Plumeria rubra còn gọi là ‘bông đại’ (Petrus Ký 1887), mặc dù hai loài sứ này đều có gốc ở châu Mỹ.

Còn mực thì sao? Nói nào ngay, dân ta biết làm ra mực chớ chẳng phải không, nhưng thứ mực tốt thì hẳn là của bên Tàu đem qua. Vassal (1880–1959), ‘naturalist’ người Anh, theo chồng là thày thuốc người Pháp tới xứ ta năm 1904, ghi rằng ở xứ ta ông quan nào đi đâu cũng có một thằng nhỏ ôm theo ‘một cái hộp sơn mài, bự, dài, chia ra nhiều ngăn đựng nào ống điếu, thuốc lá, danh thiếp, bút mực Tàu, nào lá trầu, vôi và mấy thứ khác đặng cho ổng nhai.’[30]

Hình 3. ba thỏi mực Tàu thượng hạng, thế kỷ 16–18.[31]

Ngày nay hễ nói mực tàu thì dân ta liền hiểu là mực Tàu chớ chẳng phải đồ nghề thợ mộc. Dù vậy, mực-tàu vẫn  một món đồ nghề thợ mộc; nói mực-tàu mất đi nghĩa cũ mà đổi sang nghĩa mới là mực Tàu thì chẳng trúng, bởi Tàu nảy ra từ một nguồn khác sẽ nói tiếp theo đây.

1.3.  Nguyên gốc của tên gọi ‘Tàu’

Từ điển Pigneau lần đầu tiên năm 1772 ghi nhận giẻ Tàu, điều này gợi ý rằng tên gọi Tàu đã nảy ra trước thời Pigneau (1772) mà sau thời de Rhodes (1651), có lẽ là khoảng 1710–1750.

Đó cũng là lúc người Minh-hương đã định cư lập nghiệp ở miền nam nước ta, sau khi tổ tiên của họ qua đây hồi cuối thế kỷ 17.

Sử gia Trịnh Hoài Đức (1765–1825), một người Minh-hương, mô tả cảnh phố Nông Nại ở trấn Biên Hòa trước khi quân Tây Sơn kéo vô đánh chiếm năm 1776, như sau.[32]

Ở đầu phía tây cù lao Đại Phố, lúc mới mở mang, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người thương buôn nước Trung Quốc đến lập ra phố xá, mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố, đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau…

Bây giờ, ta thử nghĩ ra cảnh một người Minh-hương đi phố Nông Nại, thấy bán lụa đẹp, muốn mua xài hoặc mua về làng bán lẻ cho người Việt. Họ hỏi lụa này ở đâu, thì người bán nói sao?

Người bán sợ khách Minh-hương chẳng ưa người Thanh, nên chẳng muốn nói lụa này ở nước Thanh—bởi lúc đó đang là thời trào Thanh. Người bán sẽ nói một nơi khác mà khách biết rành.

Cái lý đó đưa ta tới Thiều-châu.

Thiều-châu 韶州 đại khái là một cái phủ ở Quảng-đông, đặt ra từ thời trào Tùy và tới hết trào Thanh vẫn còn tên gọi đó. Hàng hóa từ miệt trên, phía nam sông Dương-tử, đưa xuống Quảng-đông qua lối Thiều-châu này (hình 4).

Hình 4. Thiều-châu (màu đỏ), Quảng-đông (màu vàng).[33]

Ta chẳng rõ những năm 1710–1750 mà ta đang nói thì Thiều-châu làm ra sản phẩm gì, nhưng, dùng chút dữ liệu nêu trên, ta có thể cho rằng Thiều-châu là một cái ‘trung tâm phân phối hàng hóa’, ở đó thương nhơn nhận và trữ đủ thứ hàng hóa bổn địa rồi bán đi khắp nơi, kể cả nước ta. Mà nhắc tới Thiều-châu thì người Minh-hương ắt chẳng lạ gì, bởi một số cũng có quê ở bển.

Cách đọc 韶 trong phương ngôn Quảng-đông hoặc các vùng khác như sau.4

  • Quan-thoại: ʂɑʊ̯
  • Quảng-đông: siau
  • Khách-gia: seu̯
  • Mân-đông: sieu
  • Mân-nam: siau
  • Ngô: 

Trở lại câu hỏi bên trên, ‘lụa này ở đâu?’ ta cho rằng người bán sẽ nói đó là lụa ở siau theo giọng Quảng-đông, ý nói lụa ở Thiều [châu]. Người mua hiểu liền, đem về làng bán lẻ cho người Việt thì cũng nói là lụa siau, người Việt bắt chước gọi theo, lần hồi siau đọc trại ra thành tào, mà từ điển thường ghi là tàu.

Riết rồi dân ta, theo cái ‘logic’ của mình, hiểu rằng lụa tàutrà tàugiấy tàu, vân vân, là những món hàng tốt làm ở bên Tàu, và thương nhơn bên đó đem hàng qua nước ta bán thì là người Tàu.

Nói tóm lại, Tàu có nguyên gốc là siau, cách đọc chữ 韶 ở miệt Quảng-đông, mà dân ta bắt chước đọc trại ra.

2.    Kết luận

Tới đây ta đã tìm ra hai điều:

  • mực-tàu có nguyên gốc là mɐk̚ tɐu̯, cách đọc chữ 墨斗 ở miệt Quảng-đông, mà dân ta bắt chước đọc trại ra.
  • Tàu có nguyên gốc là siau, cách đọc chữ 韶 ở miệt Quảng-đông, mà dân ta bắt chước đọc trại ra.

Vậy mực-tàu với mực Tàu là tên gọi hai món hàng khác nhau, dù ngày nay mực-tàu đã trôi đi mất dạng trong cái đường hầm kêu bằng ‘quá khứ’.

Nói rõ hơn, tiếng ta có một số cặp ‘từ’ mượn của tiếng Sinitic, cùng nghĩa mà khác âm, trong đó một ‘từ’ mượn trước thì xếp vô lớp ‘Late Sino-Vietnamese’ (viết tắt LSV), một ‘từ’ mượn sau thì xếp vô lớp ‘Recent Sino-Vietnamese’ (viết tắt RSV),[34] thí dụ ở bảng dưới.

chữ LSV
(đọc trại giọng Đường nhơn ở An-nam)
RSV
(đọc trại giọng Quảng-đông)
nguồn
墨斗 mək̚ təu  mặc-đẩu mɐk̚ tɐu̯  mực-tàu
d͡ʑiᴇu  thiều siau  Tàu
豉油 d͡ʑiᴇ jɨu  thị-du siː jɐu̯  xì-dầu Phan34
粿條 kuɑ deu  quả-điều kʷɔː tʰiːu̯  hủ-tíu
餛飩 ɦuən duən  hồn-đồn wɐn tʰɐn  wằn-thắn
燒賣 ɕiᴇu mˠɛ  thiêu-mại siːu̯ maːi̯  xíu-mại
叉燒 t͡ʃʰˠɛ ɕiᴇu  xoa-thiêu t͡sʰaː siːu̯  xá-xíu

Chót hết, tên gọi Tàu có lịch sử đại khái như hình 5.

Hình 5.

3.    Thảo luận

Dữ liệu cho thấy Tàumực-tàuxì-dầuhủ-tíu, vân vân, là những cái tên gọi mà thôi, bắt chước giọng nói của chính người Tàu, nảy ra một cách tự nhiên trong công việc làm ăn hàng ngày giữa người Việt với người Tàu. Cái tên Tàu chẳng có ngụ ý chi, vô thưởng vô phạt, ngay cả khi đám con nít rắn mắt dựa theo hai câu đầu của bài hát ăn khách Ya Mustapha của Dario Moreno (1921–1968) hồi những năm 1960 ở miền nam:

Chérie je t’aime chérie je t’adore

como la salsa del pomodoro

mà đặt lời Việt như vầy:

các chú Ba Tào thằng nào cũng như thằng nấy

thằng nào hổng giấy tống cha nó đi về Tào

thì đó cũng là chuyện con nít vậy thôi.

Song le, một số người Tàu dường như chẳng ưa tên gọi này— nhứt là những người lớn tuổi— mà chẳng nói ra.

Có lẽ là bởi một ‘từ’ khác, 肏, tiếng lóng, mô tả hành động mà một người đờn ông mạnh khỏe có thể làm với một người đờn bà mạnh khỏe, đọc là t͡sʰaːu̯ theo giọng Quảng-đông hoặc t͡sʰau theo giọng Triều-châu (肏你媽 = Đ.M. mày).

Với người Quảng-đông hoặc Triều-châu thì cái âm Tào nghe như t͡sʰaːu̯ / t͡sʰau, nếu không thì cũng gợi cho họ cái ‘từ’ khó nói kia.

ĐÕ NGỌC GIAO (Nguồn NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ)


 

[1] Nguyễn Văn Ngọc (1890–1942). Tục ngữ phong dao (1928).

[2] Về tên người bên Tàu Annam quen đặt mà kêu. Gia Định báo, số 5, ngày 16/2/1870.

[3] Phan Anh Dũng, Nguyễn Cung Thông (2016) Tản mạn về nghĩa của ‘mực tàu’ 墨艚 qua từ điển Việt-Bồ-La. http://chimvie3.free.fr/

[4] https://en.wiktionary.org/wiki/

[5] Nguyễn Hữu Vinh (2010) Thiền sư Từ Đạo Hạnh và văn khắc chuông chùa Thiên Phúc. https://thuvienhoasen.org/

[6] Henri Joseph Oger (1885–1936). Technique du peuple annamite (1908).

[7] Chỉ-nam-ngọc-âm. Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải (1985).

[8] Alexandre de Rhodes (1591–1660). Dictionarum Annamiticum-Lusitanum-Latinum (1651).

[9] Pierre Joseph Georges Pigneau (1741–1799). Dictionarum Anamitico-Latinum (1772).

[10] Joseph Marie de Morrone (1818) Lexicon Cochin-Sinense Latinum ad usum missionum.

[11] Pierre-Joseph Georges Pigneau, Jean Louis Taberd (1794–1840). Dictionarum Anamitico-Latinum (1838).

[12] Gabriel Aubaret (1825–1894). Grammaire Annamite suivie d’un vocabulaire Français-Annamite et Annamite-Français (1867).

[13] Théophile Legrand de la Liraye (1819–1873). Dictionnaire Elémentaire Annamite-Français (1874).

[14] Jean Louis Taberd & Joseph Simon Theurel (1829–1868). Dictionarium Anamitico-Latinum (1877).

[15] J. M. J. Louis Caspar (1841–1917). Dictionnaire Annamite-Francais (1877).

[16] Marcel Henri Ravier (1847–1899). Dictionarium Latino-Annamiticum (1880).

[17] Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký (1837–1898). Vocabulaire Annamite-Français (1887).

[18] Gaston Kahn (1864–1928). Vocabulaire Franco-Tonkinois (1887).

[19] Jean Pierre Joseph Bonet (1844–1907). Dictionnaire Annamite-Français (1890).

[20] Huình-Tịnh Paulus Của (1834–1907). Đại Nam quấc âm tự vị (1896)

[21] Jean-François Génibrel (1851–1914). Dictionnaire Annamite-Français (1898).

[22] Pierre-Gabriel Vallot (1866-19..). Dictionnaire Franco-Tonkinois illustré (1898).

[23] Paul Crépin Bourdier de Beauregard (1866–19..). Nouveau vocabulaire Français-Tonkinois et Tonkinois-Français (1900).

[24] Marcel Henri Ravier & Jean-Baptiste Dronet (1855–1939). Lexique Franco-Annamite (1903).

[25] Paul-Andre Maheu (1869–1931). Petit lexique de poche Francais-Annamite (1910).

[26] Edmond Nordemann (1869–1945). Lexique Annamite-Francais. in Chrestomathie Annamite (1914).

[27] Victor Barbier (1877–1936). Dictionnaire Francais-Annamite (1920).

[28] Hội ‘Khai Trí Tiến Đức’ (1919–1945). Việt Nam tự điển (1931).

[29] Lê Văn Đức et al (1970). Việt Nam tự điển.

[30] Gabrielle Vassal (1910) On & off duty in Annam.

[31] Wang Chi-chen. Notes on Chinese Ink. Metropolitan Museum Studies, Vol. 3, No. 1 (Dec 1930).

[32] Trịnh Hoài Đức (1820–1822) Gia Định thành thông chí. Lý Việt Dũng dịch (2004).

[33] 韶关市. https://zh.wikipedia.org/wiki/

[34] John Dương Phan (2013) Lacquered words: the evolution of Vietnamese under Sinitic influences from the 1st century BCE through the 17th century CE.

Leave A Reply

Your email address will not be published.