Tiếng xưa trầm ngâm, lắng rung đường tơ bao mơ màng

Phạm Hiền Mây

0 99

I. NHẠC SĨ CỦA NHỮNG TÌNH KHÚC LÃNG MẠN VÀ THANH CAO

Nhắc đến Dương Thiệu Tước, là chúng ta nhắc đến tác giả của những tình khúc lãng mạn và thanh cao.
Nhắc đến Dương Thiệu Tước, là chúng ta nhắc đến một dòng họ tài hoa của đất Bắc Hà. Ông là con trai của Dương Tự Nhu, từng làm Bố Chánh tỉnh Hưng Yên, và là cháu nội của cụ Nghè Vân Đình Dương Khuê, nhà Nho học truyền thống, Đốc Học Nam Định, người bạn đồng khoa của Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến, người từng viết ra bài ca trù nổi tiếng:

Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào chửa biết cái chi chi
Mười lăm năm thấm thoát có xa gì
Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.

Nhắc đến Dương Thiệu Tước, là chúng ta nhắc tới một nhạc sĩ, viết nhạc đã hay, mà dụng chữ cho nhạc còn tài tình nhiều lần hơn thế.

Nhắc đến Dương Thiệu Tước, là chúng ta nhắc đến người chủ trương soạn nhạc theo âm điệu của Tây phương nhưng lại có kiến thức rất tốt về cổ nhạc dân tộc, và sử dụng rất thuần thục cả nhạc cụ phương Tây lẫn đàn tranh, đàn bầu.

Và sau cùng, nhắc đến Dương Thiệu Tước, là chúng ta nhắc đến người phụ trách chương trình Cổ Kim Hòa Điệu, phát thanh thường xuyên tại đài phát thanh Sài Gòn vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX.
******
II. CA KHÚC TIẾNG XƯA
Ca khúc Tiếng Xưa được Dương Thiệu Tước viết vào năm 1939, khi ông mới vừa hai mươi tư tuổi. Ca khúc được viết theo làn điệu dân ca, cổ nhạc miền Nam, mà nhiều người lầm tưởng là của Huế.
Tuy vậy, khi Tiếng Xưa được cất lên, ta vẫn nghe ra chất Tây phương tươi trẻ, thanh thoát, nhẹ nhàng.
Ông viết bài này khi thường xuyên đi và về giữa Hà Nội và Huế, để tìm hiểu những làn điệu dân nhạc và cổ nhạc xa xưa.
Tiếng Xưa là tâm sự của một lữ khách khi đứng trước thành quách của kinh đô cũ, nay đã rêu phong, đã hóa thành phế tích.
Tiếng Xưa nhắc về bài thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, khiến vũ điệu Nghê Thường từ ngàn năm xưa, chợt lung linh tái diễn.

TIẾNG XƯA

Hoàng hôn lá reo bên thềm
Hoàng hôn tơi bời lá thu
Sương mờ ngậm ngùi xuân xanh
Bâng khuâng phím loan vương tình
Đâu bóng trăng xưa
Mơ khúc nghê thường
Phai tàn một thời liệt oanh
Xa đưa gió mây lạnh lùng
Chiều thu nhớ nhung vì đâu
Thắm đôi dòng châu
Tiếc thay tại sao đành lỡ làng
Man mác khói hương bay dịu dàng
Như tóc mây vương
Dáng liễu mơ màng
Cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương
Ai đó tri âm biết cùng
Hoàng hôn gió sương lạnh lùng
Hoàng hôn bao niềm nhớ nhung
Thiết tha đàn rung tiếng tơ
Vấn vương trôi theo mây mờ
Đâu khúc cô liêu
Duyên dáng tiêu điều
Dư âm chìm theo dòng châu
Tràn lan sóng vương mạch sầu
Đàn ơi thiết tha vì đâu
Tiếng xưa trầm ngâm
Lắng rung đường tơ bao mơ màng
Lưu luyến hương thu thêm dịu dàng
Ai có hay chăng
Say khúc ưu tư
Gió sương chiều thu buồn mơ
Ai đó tri âm hững hờ.
******
II.1. HOÀNG HÔN, LÁ REO BÊN THỀM
Hoàng hôn lá reo bên thềm
Hoàng hôn tơi bời lá thu
Sương mờ ngậm ngùi xuân xanh
Bâng khuâng phím loan vương tình

Ngay trong khổ đầu của ca khúc, từ hoàng hôn được lặp lại hai lần, cho biết, nơi này, giờ đây, đang rất màu chiều, và là màu chiều của mùa thu. Tuy không đến nỗi quá buồn khi Dương Thiệu Tước cho động từ reo đứng sau danh từ lá, nghĩa là, trước khi rơi rụng tơi bời xuống thềm, thì chúng đã reo lên rộn rã khi có cơn gió lùa qua, nhưng dẫu vậy, thì hoàng hôn lúc này, vẫn có nét ngậm ngùi của nỗi sầu xuân xanh.

Nỗi sầu xuân xanh ấy, khởi thủy từ khi mùa thu đến, với màu hoa lá cỏ cây. Nỗi sầu xuân xanh ấy, còn đến từ lòng người, khi mùa thu gợi lên cảnh chia ly, tan tác.

Sương mờ đang giăng khắp nơi. Bâng khuâng, xao xuyến, người nâng phím loan, dạo khẽ cung đàn trong niềm luyến thương, vấn vương tình ái:

Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
******

II.2. ĐÂU BÓNG TRĂNG XƯA, MƠ KHÚC NGHÊ THƯỜNG

Đâu bóng trăng xưa
Mơ khúc nghê thường
Phai tàn một thời liệt oanh
Xa đưa gió mây lạnh lùng

Ở khổ nhạc tiếp theo, nhạc sĩ đặt câu hỏi, đâu rồi bóng trăng xưa, đâu rồi khúc Nghê Thường.
Khúc Nghê Thường chính là Nghê Thường Vũ Y Khúc, là vũ nhạc cung đình dưới thời Đường do đích thân Đường Huyền Tông biên soạn.

Đại vũ khúc nhẹ nhàng, trang nhã được biểu diễn bởi các vũ nữ xinh đẹp tạo ra một cảnh tượng lung linh, huyền hoặc, xem mà ngỡ như những nàng tiên nữ đang múa trong mây.

Đâu rồi, những hình ảnh của một thời liệt oanh, vàng son, vẻ vang, oai hùng, lừng lẫy.

Đâu rồi, mà sao, chỉ còn đây những nét tàn phai, và từ xa xôi, đưa về những ngọn gió lạnh lùng, làm buốt giá tận tâm can.
******

II.3. CHIỀU THU, NHỚ NHUNG VÌ ĐÂU

Chiều thu nhớ nhung vì đâu
Thắm đôi dòng châu
Tiếc thay tại sao đành lỡ làng
Man mác khói hương bay dịu dàng

Những câu hỏi được đặt ra liên tiếp. Nhớ thương đang dậy lên trong lòng đây, là vì đâu? Những lỡ làng đây, là tại sao? Vì đâu, tại sao mà đôi dòng châu, đôi dòng lệ phải chịu tuôn thắm bờ mi?
Không câu trả lời, chỉ thấy màu khói hương bay man mác, chỉ thấy màu khói hương bay dịu dàng cho lòng người dâng đầy niềm tiếc nuối.

Một điểm đặc biệt trong ca khúc Tiếng Xưa là Dương Thiệu Tước dùng rất nhiều từ cổ: phím loan, dòng châu, dáng liễu, Tầm Dương, tiếng tơ, khiến nét nhạc nghe u hoài, mang mang một cảm giác trống trải, cô đơn, cùng niềm sầu nhớ tiếc xưa, nhớ tiếc thuở xưa, nhớ tiếc người xưa, nhớ tiếc chuyện tình xưa, nay đành phải dang dở, nay đành chịu lỡ làng.

Hết thảy, giờ đây, đã phai mờ, phai tàn, lụi tàn theo thời gian, theo năm tháng, và sẽ không bao giờ còn tìm lại được nữa.
******

II.4. CUNG ĐÀN NHỎ LỆ TẦM DƯƠNG

Như tóc mây vương
Dáng liễu mơ màng
Cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương
Ai đó tri âm biết cùng

Trong khổ nhạc này, Dương Thiệu Tước có nhắc đến Tầm Dương trong câu – cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương. Tầm Dương là một điển tích mà các nhà văn, nhà thơ thường sử dụng.

Tầm Dương giang thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Lúc nhà thơ Bạch Cư Dị (772-846) bị giáng chức về làm Tư Mã ở Giang Châu, trong một lần đi tiễn bạn ở bến sông Tầm Dương, nhà thơ gặp một ca nữ trên sông, vốn nổi tiếng ở Tràng An lưu lạc về khúc sông này. Nghe tiếng đàn Tỳ Bà, Bạch Cư Dị bèn hỏi gốc gác, ca nữ kể: Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn Tỳ Bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn, thường theo thuyền buôn đi đây đi đó.

Bạch Cư Dị xúc động, cho dọn rượu ra, rồi mời nàng đàn lại cho nghe. Nghe xong, cảm khái nói: Ta về đây làm quan đã được hai năm, thanh thản, yên ổn. Nay nghe nàng kể chuyện đời, thật xót thương trong lòng. Bèn làm bài Tỳ Bà Hành mà tặng cho nàng ca nữ.

Với Tỳ Bà Hành, có lần, nhà thơ Xuân Diệu từng thốt lên: Ai đã đọc bản dịch Tỳ Bà Hành, quên những đoạn nào thì quên, thậm chí nếu quên cả bài, thì bốn câu mở đầu cũng không quên được.

Bốn câu mở đầu của bản Tỳ Bà Hành do Phan Huy Thực dịch như sau:

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

Thì ra những nhớ nhung của tác giả, còn là vì những nỗi niềm này đây. Nỗi tựa tóc mây, niềm tựa dáng liễu, của nàng ca kỹ bên bến sông xưa.

Tác giả thương xót cho những giọt lệ tủi phận lỡ làng, trong một khung cảnh khói hương bay man mác và dịu dàng rất đỗi? Hay tác giả thương xót cho những tài hoa, lấy tiếng ca làm nghiệp, lấy ngón đàn làm nghề, nhưng đã hết thời, phải lang thang, phiêu bạt, kiếm tìm miếng cơm, manh áo?

Những hình ảnh của quê hương, của bóng hoàng hôn, của sông nước, của khói sương trong Tiếng Xưa của Dương Thiệu Tước, không dưng, cũng lại làm tôi nhớ quá chừng hai câu thơ của Tản Đà dịch từ bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Và câu – cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương – của Dương Thiệu Tước chính là câu đẹp nhứt, hay nhứt, tuyệt nhứt của ca khúc Tiếng Xưa. Tiếng đàn réo rắt, não nuột, làm dậy lên bao niềm xót xa, thương cảm. Nhỏ lệ hay nhỏ máu, lệ của mắt hay máu từ mười đầu ngón tay của nàng ca kỹ, suốt một đời phải ca hát, phải gảy đàn, để hầu hạ khách làng chơi?

Nhỏ lệ xuống Tầm Dương, hay lệ nhiều như sông Tầm Dương, thật là tôi không rõ. Nhưng dù có là nghĩa nào đi chăng nữa, thì nó cũng vẫn tuyệt hay.

Cái tuyệt hay trước, dẫn theo, nối theo một tuyệt hay sau – ai đó tri âm biết cùng. Ai là người nghe được tiếng lòng mình? Ai mới là người hiểu được nỗi niềm mình, đến cùng, đến tận?

Tri âm, có nghĩa là người bạn tri kỷ, tâm giao, hiểu được tiếng đàn mình, hiểu rõ tâm tư, tình cảm sâu kín của mình, chia sẻ được với mình những buồn vui trong cuộc sống.

Từ “tri âm” khởi từ tích Bá Nha và Tử Kỳ mà ra. Đời Xuân Thu, Bá Nha là người đánh đàn rất hay. Ông có bạn thiết là Tử Kỳ, hiểu được nỗi lòng của ông qua tiếng đàn rất giỏi. Tử Kỳ đột ngột qua đời. Bá Nha bèn đập vỡ đàn, mà rằng: Trong thiên hạ, không còn ai là tri âm của Bá Nha này nữa.
Câu hát ngân lên nghe như lòng tuyệt vọng, niềm tuyệt vọng: ai đó tri âm biết cùng!
******

II.5. HOÀNG HÔN, GIÓ SƯƠNG LẠNH LÙNG

Hoàng hôn gió sương lạnh lùng
Hoàng hôn bao niềm nhớ nhung
Thiết tha đàn rung tiếng tơ
Vấn vương trôi theo mây mờ

Hai tiếng hoàng hôn lại một lần nữa được điệp. Hoàng hôn lần này, chiều đã buông gió xuống, mang theo nhiều lắm rồi những lạnh lùng, và có lẽ trời cũng chuẩn bị ụp xuống một màu đêm.
Đã đến giờ chia biệt.

Bao niềm nhớ thương, theo tiếng tơ đàn, lại trỗi lên thiết tha hơn bao giờ hết. Trỗi lên, vút lên từ mười đầu ngón tay đau buốt. Trỗi lên, vút lên từ mắt lệ Tầm Dương, rồi trôi theo mây mờ. Nếu có còn gì, thì cũng chỉ là chút vấn vương, chút thương tưởng nơi lòng lữ khách.
******

II.6. ĐÂU KHÚC CÔ LIÊU

Đâu khúc cô liêu
Duyên dáng tiêu điều
Dư âm chìm theo dòng châu
Tràn lan sóng vương mạch sầu

Như bèo nước gặp nhau, rồi lát nữa đây, đường ai nấy đi. Buồn như dòng sông, chia về trăm mối, sẽ không tìm lại được nữa.

Sẽ không tìm lại được nữa, khúc Nghê Thường tuyệt trần mà rất đỗi cô liêu, hiu quạnh. Khúc Nghê Thường duyên dáng mà rất đỗi cô đơn, âu sầu. Và tiếng đàn, tiếng đàn sẽ chìm theo dòng châu, tràn lan cùng sóng.

Dư âm từ nay là mạch sầu vương sóng nước.
******

II.7. ĐÀN ƠI, THIẾT THA VÌ ĐÂU

Đàn ơi thiết tha vì đâu

Tiếng xưa trầm ngâm
Lắng rung đường tơ bao mơ màng
Lưu luyến hương thu thêm dịu dàng

Hỏi người đàn, hay hỏi cây đàn? Hỏi cây đàn hay hỏi dòng lệ rơi?

Đàn ơi thiết tha vì đâu?

Thiết tha vì đâu, thiết tha vì ai, mà sao cứ rung mãi đường tơ bao mơ màng, mơ hồ, lãng đãng?
Thiết tha vì đâu, thiết tha vì ai, mà sao cứ lưu luyến mãi làn hương thu, ảo mộng, dịu dàng?

Cho trầm ngâm, cho lặng lẽ, cho ưu tư, niềm ai hoài vậy!
******

II.8. AI ĐÓ TRI ÂM HỮNG HỜ

Ai có hay chăng
Say khúc ưu tư
Gió sương chiều thu buồn mơ
Ai đó tri âm hững hờ.

Khúc kết của ca khúc được mở đầu bằng một từ ai – ai có hay chăng?

Ai đây là ai?
Ai là ca nữ?
Ai là lữ khách?
Hay ai là cuộc đời, là thế gian?

Tôi lại nhớ đến câu hò Huế trên sông mà từ hồi nhỏ xíu tôi đã thuộc làu làu:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Ai là nàng hay là chàng cũng được, cũng đều say hết cả rồi.
Say trời mây, say sương khói, say hương gió, say màu trăng.
Say chiều hoàng hôn, say dáng liễu, say khúc Nghê Thường, say Tầm Dương.
Say tiếng đàn, say dòng châu, say khúc ưu tư, say khúc buồn, say khúc sầu, trong mơ màng sương gió, có nỗi niềm đắng cay, nhận ra, có tri âm đấy, mà là tri âm hững hờ.

Ai đó tri âm hững hờ!
******
III. AI ĐÓ TRI ÂM BIẾT CÙNG

Nhận xét về sáng tác của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, nhà thơ Nguyễn Đình Toàn cho rằng: Trong các ca khúc của Dương Thiệu Tước, tình thường lẫn với cảnh. Người ta không biết ông yêu người hay yêu cảnh hơn? Cũng có thể vì yêu người nên yêu cảnh và ngược lại.

Thật đúng như vậy. Rất nhiều các ca khúc của Dương Thiệu Tước là những bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp, có hồn vía, được vẽ bằng những nét vẽ đầy ưu tư, trầm lắng, nhung nhớ và sầu thương.
Trình bày ca khúc Tiếng Xưa thì có nhiều ca sĩ lắm, từ những giọng “sang” như Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Trang, Hà Thanh, Mai Hương, Quỳnh Giao, Kim Tước, Giao Linh, Họa Mi, Thùy Dương đến những giọng trữ tình bolero như Hoàng Oanh, Phi Nhung, Trang Mỹ Dung, đều có đủ.

Nói Dương Thiệu Tước là một trong những nhạc sĩ tài hoa bậc nhất của nền tân nhạc Việt Nam từ những buổi đầu phôi thai là không hề quá đáng. Dương Thiệu Tước, ngoài là một nhạc sĩ tài giỏi và phong nhã, ông còn là một nhạc sĩ lịch sự, duyên dáng trong cư xử, giao thiệp, và còn là một nhạc sĩ rất hiền, rất được nhiều thế hệ các nhạc sĩ, các ca sĩ, các sinh viên theo học và khán thính giả khắp nơi, trong và ngoài nước, yêu mến và đồng nhận xét như vậy.
******
IV. TIẾNG XƯA TRẦM NGÂM, LẮNG RUNG ĐƯỜNG TƠ BAO MƠ MÀNG

Ca khúc có nhan đề là Tiếng Xưa.
Tiếng Xưa được diễn ra trong một buổi chiều Thu ảo mộng.

Đó là buổi hoàng hôn với những nức nở, với những nỉ non, với những ai hoài của niềm tâm sự, của tiếng đàn – tức Tiếng Xưa – đã gợi lên trong hồn người nghe, biết bao là niềm yêu thương, biết bao là niềm nhung nhớ, biết bao là niềm tiếc nuối.

Tám mươi sáu năm đã trôi qua, hôm nay, mời các bạn, cùng tôi – trong bóng hoàng hôn, trong lá thu tơi bời, trong sương mờ, trong gió mây lạnh lùng, trong khói hương bay dịu dàng, trong sóng nước, trong bâng khuâng, trong say men, trong niềm tri âm – lắng nghe khúc Nghê Thường, từng làm nhỏ lệ Tầm Dương, từng một thời liệt oanh, qua:

TIẾNG XƯA TRẦM NGÂM, LẮNG RUNG ĐƯỜNG TƠ, BAO MƠ MÀNG!
Sài Gòn 03.08.2025
Phạm Hiền Mây– Nguồn Facebook tác giả.

Leave A Reply

Your email address will not be published.