Hoài niệm Mì Gõ: Tiếng Lốc Cốc Hẻm Đêm

TVN

0 81

“Cốc…cốc…lốc cốc…cốc…cốc…lốc cốc…”

Tiếng gõ lan dài trong hẻm vắng giữa đêm khuya. Tôi thầm tưởng tượng đến tô mì hay hủ tíu nóng hổi, vài lát thịt xá xíu mỏng manh nằm e ấp giữa màu xanh non của hẹ và xà lách, mấy lát ớt đỏ tươi trên nền những sợi mì vàng ươm hay hủ tíu trắng ngà. Thấp thoáng đâu đây mùi thơm của tóp mỡ giòn rụm và hành phi thơm lừng.

Những năm 90 khi là sinh viên nghèo mới ra trường, tôi nằm trên căn gác nhỏ lắng nghe tiếng mì gõ mỗi đêm. Tô mì gõ là cứu tinh của… bao tử những lần học hay làm về khuya, tuy là món ít tiền nhưng cảm giác ấm lòng lúc đói thì mỹ vị bây giờ ngon mấy cũng không sánh được. Tiếng gõ ấy đã một thời theo tôi vào giấc ngủ, hôm nào vắng nó thì cứ thấy thiêu thiếu.

Sao không Rao mà lại Gõ?

Khi hầu hết các hàng quà rong Việt Nam đều đi kèm tiếng rao, tại sao mì gõ lại rao hàng bằng tiếng gõ?

Trước hết hãy lắng nghe họ gõ thế nào. Nhà văn Minh Hương tả chi tiết và rất thơ tiếng gõ mì ở Sài Gòn xưa trước 1975: “Tối, khoảng hơn tám giờ – lốc cốc, lách cách, lắc cắc…Có khi nghe cắc…cụp, cụp cắc cụp… nhịp nhàng, vui tai. Tiếng hai thanh tre ngắn gõ vào nhau, khi nặng, khi nhẹ, lúc thưa, lúc nhặt. Một khúc dẹp, một khúc mô tròn lên. Gõ lâu ngày, nên nổi màu vàng nâu bóng lưỡng.” (Minh Hương, Nhớ… Sài Gòn, NXB Thành phố HCM 1994, tr. 102)

Nhà văn có khác, không chỉ quan sát kỹ lưỡng mà so sánh cũng độc đáo. Ông nghe tiếng gõ “như tiếng sênh, tiếng phách đánh nhịp mấy bài cổ nhạc”. Ông còn nghe được cả tâm tình người bán qua tiếng gõ: “Tiếng nghe liếng thoắng và nhí nhảnh, nhộn nhịp và giòn giã hơn, nếu được nhiều nhà kêu nấu… Trời mưa, vẫn nghe gõ lốc cốc, lách cách nhưng rời rạc, buồn hiu.” Và thương nhứt là sự tinh tế của người gõ “có khi đã gần nửa đêm, còn nghe cắc cụp nhưng dè dặt và nho nhỏ.” (Minh Hương, sđd, tr. 103).

Liệu tiếng gõ đó có ý nghĩa gì chăng? Một Hoa kiều lớn tuổi ở Sài Gòn nói với tác giả Thanh Hoàng rằng nhịp điệu tiếng gõ “là cách thông tin cho người nấu biết nấu mấy tô, loại mì gì – hủ tíu hay hoành thánh.” Chưa hết, mỗi bang hội người Hoa lại có cách gõ khác nhau “dài hay ngắn, trong hay đục, nhanh hay chậm” để thông báo địa giới làm ăn, bang khác nghe tiếng gõ phải tránh đi. (“Chú Thoòn mì gõ Sài Gòn xưa”)

Tôi cực kỳ tiếc sao Thanh Hoàng không hỏi luôn vì sao dùng tiếng gõ mà không dùng tiếng rao? Hai thanh gõ gợi tôi nhớ đến sênh sứa hay cặp kè, nhạc cụ dùng trong hát xẩm. Sênh sứa là hai miếng cật tre già vót hình chiếc lá thuôn thuôn, khi gõ vào nhau tạo nhiều nhịp điệu khác nhau với tiếng trong và vang. Nhưng có phải thanh mì gõ bắt chước sênh sứa không thì còn cần bằng chứng để có câu trả lời chắc chắn.

Giờ thi thoảng về lại Sài Gòn, đêm nằm thao thức nhưng không còn nghe gõ. Sự thương nhớ của tôi lẩn thẩn chuyển thành câu hỏi: Mì gõ có từ khi nào, và bắt nguồn từ đâu? Hãy đi theo dòng chảy của lịch sử thông qua ký ức của người xưa.

Mì Gõ miền Nam đầu thế kỷ 20

Đi ngược thời gian, tôi may mắn tìm thấy những câu văn quý giá mô tả cảnh bán mì rong vào đầu thế kỷ 20 ở miền Nam.

Đây là phong cảnh cầu tàu Gò Công trước năm 1910 với xe mì gõ: “Các tàu Sài Gòn – Gò Công thường đậu lại cầu này… những kẻ bán hàng rong, xe mì mời mọc hành khách xuôi ngược trên đường, tiếng “lắc cắc cụp” của chú tửng gõ hai miếng tre bông trên tay còn văng vẳng.” (Huỳnh Kim, Gò Công xưa và nay, tác giả tự xuất bản 1969, tr. 222) Giữa cầu tàu náo nhiệt, tiếng gõ mì vui tươi như nhịp phách điểm tô cho tiếng rao hàng rong lanh lảnh. Thật là một bức tranh sống động!

Thị trấn Mỹ Tho năm 1923 lại có vẻ đẹp nhàn nhã và thư thái: “Lối nửa chiều, mặt trời ngả bóng xiên-xiên, gió xô nhành lúc-lắc. Khúc đường dựa theo mé sông cái, ngang châu-thành Mỹ-Tho, từ nhà giấy xe lửa sấp lên, thiên-hạ qua lại dập-dìu. Trước khách-sạn có một gánh mì gõ lắc-cắc, dưới gốc cây chị chè đậu rao hò-hơ, học-trò dắt nhau đi chơi, cười giỡn om-sòm, xe kéo không có ai kêu, ngồi khoanh tay riết.” (Hồ Biểu Chánh, Tỉnh mộng 1923, chương 5, hobieuchanh.com) Hiện lên trước mắt tôi một phong cảnh rặt Nam Bộ mới đẹp làm sao quanh gánh mì giản dị.

Mì gõ là món ăn ưa thích của nhà văn Vương Hồng Sển hồi nhỏ ở Sóc Trăng: “Hễ tôi nghe khúc nhạc của chú Tắc nhịp nhịp tre “lắc cắc cụp, lụp cụp lắc cắc”, hoặc hễ mũi tôi lọt được hơi mùi tỏi chiên ở ngã tư đường đầu phố, thì đêm hôm ấy, làm gì thì làm, tôi cũng chừa trong bao tử một chỗ sẵn để chứa tô mì nước hai vắt hay tô bò bún chiên.” (Ăn cơm mới nói chuyện cũ: Hậu Giang Ba Thắc, NXB Trẻ 2012, tr. 246)

Lên sống ở Sài Gòn, ông tả món mì gõ chi tiết hơn: “Tô mì trên Sài Gòn, thuở trước chia ra hai giá. Tô ba xu không có thịt nhưng cũng một vắt mì và nước lèo ngon lành. Tô sáu xu thì có hai vắt mì thêm bốn miếng thịt xá xíu xắt mỏng, một miếng gan heo luộc và một miếng bao tử heo luộc.” (sđd, tr. 246)

Saigon’s clack-clack noodles
Tô hủ tíu gõ bình dân I Theo dấu giày sô, “Hủ tíu gõ bình dân”, YouTube

Đến đây ta có thể khá tự tin mà kết luận mì gõ đã có mặt ở miền Nam ít nhứt từ đầu thế kỷ 20, khởi đầu do người Hoa bán rong nên nguyên liệu và cách nấu tương tự món mì và hoành thánh của người Hoa.

Sực Tắc miền Bắc trước 1954

Sực tắc, món mì rong của người Hoa ở miền Bắc trước 1954, được nhiều người cho rằng đã vào Nam và trở thành mì gõ. Tuy nhiên, tôi chưa tìm thấy tài liệu nào ghi nhận sực tắc trước năm 1910, thời điểm Huỳnh Kim tả xe mì gõ ở cầu tàu Gò Công. Do đó, thay vì cho rằng sực tắc là tiền thân của mì gõ, tôi nghĩ cả hai có thể đã cùng tồn tại ở Nam và Bắc vào đầu thế kỷ 20.

Bút ký Hà Nội 36 phố phường gồm các bài Thạch Lam viết về Hà Nội đã đăng rải rác trên các báo đến năm ông qua đời (1942). Trong bài “Hàng quà rong”, ông kể về những món quà rong Hà Nội xưa bằng giọng văn chân thật và giản dị, ấy thế mà thu hút vô cùng. Ông giải thích cái tên sực tắc một cách dí dỏm:

“Có lẽ người bán nghĩ rằng quà rao là sực tắc, hai thanh tre gõ vào với nhau như tiếng guốc đi của một gái về đêm, mà sực tắc chính là hai tiếng tàu thực đắc mà ra. Thực đắc là ăn được, cho nên quà chỉ cốt ăn được, không cốt gì ăn ngon.” (NXB Văn Hóa Thông Tin 2000, tr. 128)

Chỉ tám chữ “như tiếng guốc đi của một gái về đêm” tạo nên một so sánh vừa tượng thanh vừa tượng hình, lại bao quát cả không gian thời gian cho món sực tắc. Đã vậy, nhà văn còn có chút hài hước và thâm thúy khi bình luận về cái tên “sực tắc” xuất phát từ “thực đắc” để bênh vực cho món ăn “rẻ mà nhiều nhưng thiếu phẩm” này.

Chinese clack-clack vendor
Gánh mì – hủ tíu gõ xưa của người Hoa @ benxua

Một người Hà Nội khác cũng hoài nhớ món ăn đêm này là Tô Hoài. Ông viết: “Thanh tre đập chéo nhau vang lên hai tiếng gọn gàng, lanh lảnh… Sực tắc… sực tắc… Từ bấy giờ đến tan canh, tiếng gõ sực tắc chốc lại thấp thoáng văng vẳng như tiếng vạc ăn đêm. Không biết con vạc đi ăn về lửng lơ thơ thẩn phía nào.” (Chuyện cũ Hà Nội tập 1, NXB Trẻ 2004, tr. 104) Hóa ra “sực tắc” là âm thanh hai tiếng gõ ngắn gọn của hàng mì rong thuở ấy.

Băng Sơn thì nhớ cảnh “cái rổ con buộc dây ròng từ gác hai gác ba xuống lúc đêm khuya để mua bát sực tắc. Kéo dây lên, ăn xong thả dây xuống trả bát trả tiền.” (Thú ăn chơi người Hà Nội, NXB Văn Hóa Thông Tin 2005, tr.22) Chỉ một sợi dây mà nối được cái dạ dày đang sôi réo với tô mì hấp dẫn, đúng là cái khéo của người Hà Nội chẳng đâu sánh bằng.

Sau 1954, do những biến chuyển về kinh tế và xã hội, sực tắc vắng bóng ở miền Bắc, chỉ còn lại trong ký ức phố phường.

Thăng trầm Mì Gõ Sài Gòn

Khi sực tắc miền Bắc đã lùi vào trang sách, mì gõ ở Sài Gòn cũng từng vắng bóng sau năm 1975. Đến cuối thập kỷ 1980 – những năm đầu thời kỳ mở cửa, khi tư nhân dần khôi phục kinh doanh, hàng rong lại len lỏi trên đường phố Sài Gòn trong đó có mì gõ. Lúc này, thịt xá xíu được thay bằng thịt heo luộc xắt lát mỏng dính, gan và bao tử nhường chỗ cho mấy miếng tóp mỡ giòn tan cùng hành phi thơm lừng, điểm thêm rau xà lách và lá hẹ xanh tươi. Nước lèo nấu từ xương heo, nêm nhiều bột ngọt, vậy mà vẫn ngon lạ ngon lùng.

Clack-clack noodles
Hủ tíu mì gõ I Theo dấu giày sô, “Hủ tíu gõ bình dân”, YouTube

Khi mì gõ hồi sinh vào cuối thập kỷ 1980, người Hoa vẫn còn bán, nhưng đến đầu năm 2000, người Quảng Ngãi đã chiếm đa số. Có người Quảng Ngãi làm cho các xe mì người Hoa, rồi sau một thời gian tự mở xe riêng, người trước dìu dắt người sau, tạo nên một cộng đồng mì gõ đậm chất Quảng Ngãi ở Sài Gòn.

“Cứ khoảng gần nửa đêm, tiếng lóc bóc của thằng nhỏ bán mì gõ lại vang lên, len lỏi vào mê trận không lối ra của những đường ngoặt bất thần chi chít. Thằng nhỏ quê tận đàng ngoài, trôi dạt vô đây phụ việc xe hủ tíu mì… Ông chú người Tiều sẽ cắm vài cọng nhang vô góc đường gần đó, thằng nhỏ cứ theo mùi nhang, như cọng khói cứu sinh len lỏi hẻm đêm mà lần đường về… Họ làm nên một cặp đôi kỳ lạ giữa cái thành phố này, bắt kết vào nhau trong cuộc sinh nhai đôi khi chỉ bằng làn khói hương mỏng mảnh…” (Trác Thúy Miêu, “Mùi thị dân”)

Liêu trai mà rất thật! Sài Gòn đâu chỉ có nụ cười hân hoan mà còn có mồ hôi, nước mắt của nhọc nhằn. Nhưng dù cuộc sinh nhai có tàn khốc đến đâu, người Sài Gòn và các di dân đến Sài Gòn không hề bỏ cuộc, cho dù hy vọng chỉ là làn khói hương mỏng manh giữa dâu bể cuộc đời…

Pedaling noodles
Giao mì trong mưa I Theo dấu giày sô, “Hủ tíu gõ”, YouTube

Sài Gòn bây giờ, đã lâu rồi không còn tiếng gõ. Bạn tôi cười tôi nhà quê, nói cứ đặt trên mạng là mì đến tận nhà. Xe mì vẫn đậu ở một góc nào đó, chú bé gõ mì nay được trang bị chiếc xe đạp để giao mì cho nhanh. Mì gõ tiếp tục sưởi ấm dạ dày của người Sài Gòn vào buổi đêm khuya dù tiếng gõ đã đi vào dĩ vãng. Mong cảnh đời của những số phận làm nên tô mì sẽ ngọt ngào hơn, không còn đắng chát nghẹn ngào như ngày-xưa-mì-gõ.

Theo mlefood – Minh Lê

Leave A Reply

Your email address will not be published.