Lòn bon- trái cây vinh dự được khắc trên cửu đỉnh của vương triều Nguyễn
TVN
Bòn bon hay lòn bon là một giống cây ăn quả nhiệt đới khá dân dã ở nước ta và các nước Đông Nam Á. Khi vua Minh Mạng đúc Cửu đỉnh, nó đã vinh dự được khắc lên Nhân đỉnh. Đằng sau vinh dự tối cao ấy là câu chuyện hào hùng về lòng trung nghĩa, về một lần thoát nạn của chúa Nguyễn trong buổi binh lửa, và là biểu tượng thiêng liêng cho đạo lý “uống nước nhớ nguồn” được khắc sâu vào sử vàng dân tộc.
Cây bòn bon (hay lòn bon – ngữ âm người Quảng Nam là loòng boong, phía Bắc gọi dâu da đất, trong Nam gọi bòn bon) mọc nhiều ở các vùng núi, ra trái từng chùm ngay trên thân và cành cây. Đây là loại cây ăn quả khá dân dã, tuy nhiên vùng Đại Lộc, Quế Sơn, Tiên Phước (Quảng Nam) nổi tiếng là có trái lòn bon ngon nhất với vị ngọt thanh pha chút chua và rất thơm.
Trái bòn bon, thật kỳ lạ, có thể ăn bất cứ lúc nào, dù no hay đói cũng có thể ăn được mà không sợ bị xót ruột. Cây bòn bon dễ trồng, dễ sống, ít tốn công chăm sóc nhưng cho nhiều quả, từ lâu đã trở thành một món đặc sản dân dã của xứ Quảng.

Sách Đại Nam nhất thống chí (tập 2, quyển 7: tỉnh Quảng Nam) viết: “[Lòn bon] nguồn Ô Da và nguồn Thu Bồn đều có. Tháng 8, tháng 9 quả chín, sắc trắng, vỏ mỏng, vị ngọt và thơm, có lệ thượng tiến để dùng vào việc tế tự. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào Nhân đỉnh”.
Nam trân, nghĩa là thức quí đất Nam, là mỹ tự được vua Minh Mạng ban cho trái lòn bon. Đó là một loại quả dân dã, mọc nhiều ở vùng rừng núi, có vị ngọt thanh xen lẫn vị chua nhẹ. Vì sao loại quả dân dã này được các vua triều Nguyễn hết mực yêu mến, không chỉ là phẩm vật cung tiến vào dịp tết Nguyên đán, các buổi tiệc thiết yến mà còn là quả phẩm trong mỗi dịp lễ giỗ, lễ mừng thọ? Đó là bởi loại quả rừng dân dã ấy ẩn chứa một giai thoại đẹp về lòng nhân ái, về đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Tương truyền trong một lần giao tranh giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn, kết cục quân Nguyễn thua trận phải lánh vào rừng Quảng Nam, thượng nguồn Ô Gia. Trong lúc đói mệt, chúa Nguyễn gặp được rừng lòn bon liền hái mấy trái, lấy móng tay bấm lên vỏ mà ăn thử, thấy vị ngọt thanh lạ thường, nhờ đó vượt qua cơn đói khát. Sau ngày khải hoàn 1802, vua Gia Long đã cho rà soát để triều đình ghi ơn, trái lòn bon chính thức trở thành sản vật cung tiến. Triều vua vua Minh Mạng đặt chức Quản Nam Trân để quản lý và quy định mỗi kỳ trái chín phải tiến vua. Khi cho đúc Cửu đỉnh, cây Nam trân đã vinh dự được vua vua Minh Mạng cho khắc lên Nhân đỉnh, tức đỉnh thứ nhì ở sân Thế Miếu trong Hoàng thành Huế.
Không chỉ là sản vật cung tiến trong các kì đại lễ, trái Nam trân còn là quả phẩm không thể thiếu trong các lễ giỗ ở hoàng cung. Việc vận chuyển quả phẩm từ các địa phương về Kinh được các vua Nguyễn rất coi trọng.
Ngày nay vào khoảng cuối tháng 8, đầu tháng 9 dương lịch mỗi, trên vạt đồi của các huyện miền núi Quảng Nam lại vàng ươm mùa lòn bon núi chín rộ. Trong mỗi người con Quảng Nam xa xứ cũng đều thuộc làu câu ca dao:
“Trái lòn bon trong tròn ngoài méo Trái thầu đâu trong héo ngoài tươi Thương em ít nói, ít cười Ôm duyên mà đợi chín mười con trăng”.