Vài cái bánh hiếm, lạ…
Nguyễn Dư
Bánh khía tiền
Tranh Oger (*) có chiếc Bánh trung thu trông chẳng thua gì cái bánh dẻo “chất lượng cao” ngày nay. Bánh hình chữ nhật, trình bày công phu. Đường nét chạm trổ như… “tây đen rạch mặt”.

Bánh được đặt tên là Bánh “khuy” tiền. Tên xa lạ, khó hiểu.
Khuy (chữ Hán, bộ Hô) nghĩa là thiếu, giảm bớt, thiệt hại. Mấy nghĩa này không thích hợp với cái bánh.
Từ đó suy ra rằng Khuy không phải là chữ Hán. Khuy là chữ Nôm.
Tra tìm trong sưu tập tranh thì thấy Khuy (chữ Nôm) là cái khuy áo. Nghĩa này cũng không dùng được cho tên bánh.
Chỉ còn cách đọc trại âm từ Khuy. Trong số các từ có âm đầu Kh (khay, khoa…) hay âm cuối Uy (tuỷ, huy…) của tiếng Việt thì thấy:
Tự điển Khai Trí Tiến Đức, vần Kh có chữ Khía:
Khía là vạch, đường lõm xuống. Thí dụ: Cạnh đồng bạc có khía.
Khía là đường rãnh nhỏ rạch trên bề mặt một vật (Hoàng Phê).
Ngắm cái bánh thì thấy có rất nhiều khía nhỏ. Phía cạnh (bề dày) cái bánh cũng có thể có nhiều khía, chỗ các đường vòng tròn tiếp xúc nhau.
Nói tóm lại, cái bánh có khía giống cạnh đồng tiền của hồi đầu thế kỉ 20 (giống cả mấy đồng euro bằng kim loại ngày nay!).
Tên tranh là Bánh khía tiền.
Oger gọi cái bánh này là gâteau riche. Có tiền nhất định phải giàu?
Olivier Tessier, Philippe Le Failler đọc tên tranh là Bánh Khoai tiền[1]. May, không phải là bánh khoái tiền.
Chữ Khoai được tranh Oger viết bằng chữ Dụ (hay Vu, bộ Thảo) nghĩa là Khoai nước hay khoai lang. Không có chữ Khoai nào được viết bằng chữ Khuy.
***
Bánh Hoài sơn
Tranh Oger còn một cái Bánh trung thu khác, tên cũng khó hiểu không thua gì bánh khía tiền.

Bánh được bó bằng giấy màu có hoa văn. Tên bánh chỉ có hai chữ.
– Chữ, tạm gọi là (X), được viết = (bộ Tâm+chữ Y).
– Chữ Sơn.
Tra tìm nhiều bộ Tự điển, Bảng tra chữ Nôm, không thấy chữ (X).
Cho đến một hôm, tình cờ… Eurêka!
Tìm được chữ (X) trong hai cuốn sách của Vũ Văn Kính [2][3].
(X) là chữ Hoài (bộ Tâm) viết tắt.
Tên tranh là Bánh Hoài Sơn.
Hoài sơn là khoai mài, dùng làm thuốc (Đào Duy Anh).
Củ mài dùng làm thuốc hay làm thức ăn (Hoàng Phê).
Bánh Hoài Sơn là bánh làm bằng bột khoai mài (củ mài).
Olivier Tessier, Philippe Le Failler cũng đọc tên bánh là Hoài Sơn.
(Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi [4] có cây Hoài sơn nhưng chữ Hán viết kèm bên cạnh lại viết là Sơn Dược, một tên gọi khác của củ mài).
***
Bánh bò
Năm 1943, E. Bergès dịch Bánh bò là “gâteau qui rampe”. Bò như trẻ con ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò.
Bergès giải thích rằng đặt tên là Bánh bò vì lúc đem hấp, bột bánh có nhiều bong bóng nhỏ li ti (do phản ứng của levure, men), nở lan ra, trông như đang bò lên thành khuôn. Lúc ăn bánh, dùng dao cắt thành miếng nhỏ [5].
Từ điển Hoàng Phê cũng định nghĩa tương tự như Bergès:
– Bánh bò là bánh làm bằng bột gạo tẻ ủ với đường và men, khi hấp chín thì nở to, mềm và xốp (có loại đổ vào chén, khi hấp thì bột nở, bò lên miệng chén, thành hình ba cái tai).
Bánh bò là một thứ quà bình dân, rẻ tiền. Bánh được người bán cắt thành miếng, to hay nhỏ tuỳ theo túi tiền của khách.
Thuở bé tôi thỉnh thoảng được ăn bánh bò. Bánh ngọt, mềm và xốp. Nhưng chưa bao giờ được ăn bánh bò… đổ vào chén, nở thành hình ba cái tai!
Có đúng là vì bột bò mà bánh được gọi là bánh bò hay không?
Xét cho cùng thì cái bánh hay cục kẹo nào cũng muốn được vua biết mặt, chúa biết tên. Nhưng phải Trông mặt đặt tên mới dụ được khách qua đường.
Chẳng hạn như Kẹo kéo, khách hàng biết là cái khối kẹo kia sẽ được kéo thành thanh nhỏ. Bánh cuốn, người ăn biết rằng nhân được cuốn lại bên trong lớp bánh. Bánh trôi, “Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non” (Hồ Xuân Hương, Bánh trôi), viên bánh trôi,nổi trong chén nước đường.
Còn bánh bò ?
Bột bò lén lút lên thành khuôn hay miệng chén lúc nào, người ăn hoàn toàn không thấy, không biết. Đặt tên như vậy coi bộ thiếu hấp dẫn, không phù hợp.
Có thể nói Bánh bò không phải là bánh bò lê bò càng.
Nếu vậy thì Bò từ đâu ra, nghĩa là gì?
Từ điển Đào Duy Anh, Tự điển Thiều Chửu dịch chữ Bào (bộ Thuỷ) là bọt nước.
Cũng chữ Bào (bộ Thuỷ) này, sách Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Trần Văn Kiệm có thêm nhiều nghĩa: Bong bóng, Có hình bong bóng, Mềm xốp, Không cứng[6].
Mấy nghĩa trên đây đều đúng với cái bánh bò, từ lúc bột được ủ men (có bong bóng), đến sau khi được hấp chín (mềm xốp).
Có thể khẳng định rằng từ Hán Việt Bào đã được Việt hoá, đọc trại thành Bò. Kết quả là ta có cái bánh bò ngọt, mềm xốp, ruột có nhiều bong bóng.
Bò xong rồi, ai còn sức thì mời leo lên mái nhà ăn bánh…
***
Bánh ngói
Năm 1903, ông Nguyễn Khắc Huề từ Bến Tre ra Hà Nội xem Đấu Xảo, rồi tới Vĩnh Yên thăm bạn bè.
Ông Huề tới Vĩnh Yên nhằm ngày có chợ phiên. Rất đông người. Hàng hoá đại khái cũng như ở Hà Nội. Nhưng đặc biệt là tại đây có bánh ngói (gâteau tuile), mỏng như tấm bìa các-tông, lớn chừng 10x15cm. Bánh được làm bằng đất sét, đem nung như nung gạch, ngói.
Bạn ông Huề, cũng người miền Nam đang sống tại Vĩnh Yên, bảo ông rằng bánh ăn được đấy! Ông Huề tò mò, bỏ ra 2 xu mua một chục chiếc bánh.
Về nhà bạn, ông Huề đem bánh ra ăn nhưng mới nhai miếng đầu tiên ông vội nhè ra.
– Ai lại ăn đất!
– Ở đây người ta ăn. Anh cứ thử đem cho trẻ con thì sẽ biết.
Ông Huề đem bánh cho trẻ con, thấy chúng ăn ngon lành. Ông hỏi xung quanh thì được biết trước kia bánh ngói dành cho đàn bà có chửa (có bầu). Sau này, người không có chửa và trẻ con cũng ăn [7].
Cái bánh ngói quái gở kia từ đâu ra? Sách xưa không ghi chép gì về bánh ngói. Chúng ta chỉ biết rằng bánh được bán tại Vĩnh Yên, năm 1903.
Năm 1884 triều đình nhà Nguyễn kí hoà ước công nhận quyền bảo hộ của Pháp. Nhiều nơi nổi lên kháng chiến chống Pháp.
Lính Pháp (và lính Tập) phải đánh dẹp, có mặt khắp nơi.
Lúc hành quân, lính Pháp được phát đồ ăn mang theo, trong đó có bánh biscuit (bích quy).
Biscuit là bánh được bỏ lò nướng chín hai lần (bis=hai lần, cuit=nướng chín), bánh cứng. Ngày xưa, biscuit là thức ăn dự phòng của lính Pháp (Larousse).
Nhưng biscuit của Pháp còn có nghĩa khác là đồ sứ, đồ sành không tráng men, nung xong không nhẵn bóng, trông giống đá hoa cương (Larousse).
Có thể trong lúc đùa giỡn, mấy ông lính Tây có ý xấu đã chỉ bảo cho mấy bác lính Tập cách làm biscuit (bằng đất sét) thành… bánh biscuit để ăn.
Đến lượt mấy bác lính Tập “truyền nghề” làm bánh ngói lại cho làng xóm.
***
Bánh chưn
Cái Bánh chưn (chưn không có g) của Tự vị Huỳnh Tịnh Của là: Bánh vuông dẹp giống cái bàn chưn, thủ nghĩa địa phương, cũng gọi là địa bỉnh.
Thật bất ngờ được thấy trí tưởng tượng của Huỳnh Tịnh Của.
Bàn chân Giao Chỉ của dân ta thì đã biến mất từ lâu. Bàn chưn vuông dẹp thì ngành khảo cổ đến nay vẫn chưa tìm ra thuỷ tổ loài người nào có bàn chưn như vậy.
Bên cạnh bánh chưn, Tự vị Huỳnh Tịnh Của còn có thêm Bánh chưng (Chưng nghĩa là nấu lâu, nấu cách thuỷ).
– Bánh chưng là bánh gói bằng nếp làm ra hình vuông vuông cùng kêu là địa bỉnh, hiểu nghĩa trời tròn đất vuông, phải chưng hấp theo phép cho nên gọi là bánh chưng.
Bánh chưn và bánh chưng đều hình vuông, đều được gọi là địa bỉnh theo nghĩa trời tròn, đất vuông. Hoá ra hai cái bánh giống nhau. Hay chỉ là một?
Xin phép được phạm thượng, phê bình Huỳnh Tịnh Của đã viết tên bánh sai chính tả, nhầm lẫn chữ chưng (có g) với chưn (không có g)!
Nhưng Chưng nghĩa là gì?
Sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp kể rằng:
Bánh chưng bánh giày có từ thời Hùng Vương.
Bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất, bánh giày hình tròn tượng trưng cho trời.
1) Chưng là biến âm (hay là âm cổ?) của chuông.
Tự vị Huỳnh Tịnh Của định nghĩa Chuông là bốn phía vuông vức bằng nhau.
Chuông chắn (tiếng đôi): Vuông tượng.
Chuông biền sắc cạnh: Cả biền cạnh đều vuông tượng sắc sảo. (Thường nói về đồ mộc).
Đo chuông: Đo lấy bề vuông vức.
Chuông nhiễu: Một thước nhiễu đo vuông.
Một chuông: Một khổ vuông vức, (nhiễu).
Tự điển Génibrel cũng định nghĩa chuông là vuông (carré). Một thước chuông là un mètre carré.
2) Giày là biến âm của giời.
Phủ Giày là nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh. Bà là đệ nhất Thánh mẫu Thượng thiên, ngự trị cõi giời (trời).
Bánh chưng, bánh giày tượng trưng cho Đất vuông, giời tròn.
(Viết Phủ Dày, Bánh dày (dày mỏng) là nhầm lẫn, sai chính tả).
Thưa cụ Huỳnh Tịnh Của, bánh Chưng không có nghĩa là bánh được chưng hấp theo phép.
Tiện dịp nói thêm là ngày nay cũng nhầm lẫn chưng với chưn (chân).
Tự vị Huỳnh Tịnh Của có từ Chưng (bộ Sách): Lấy theo nghĩa chữ Nho thì là chứng ra hay là trưng tích.
Chưng cổ là bày sự tích xưa.
Cầm chưng là cầm lại mà làm chứng.
Thế chưng là thế vì, giao cho làm chứng.
Tiền thế chưng là tiền giao nạp cho được làm chứng vì việc giao ước.
Ngày nay, giới thương gia nhầm lẫn chữ chưng (có g) với chưn (không có g). Chưa hết, chưn lại được sửa đổi thành chân.
Kết quả là bây giờ mua bán, kí giao kèo phải đóng tiền thế chân (thay cho tiền thế chưng). Chân này là… chân giả! Đứng không vững. Vì vậy mà làm ăn thường bị đổ bể!
***
Bánh Hoa lang
Tự điển Génibrel có Bánh hoa lang là: Gâteau, Biscuit de savoie.
(Gâteau là bánh làm bằng bột, bơ, đường, trứng. Biscuit là bánh cứng, làm bằng bột, đường và trứng. Biscuit de savoie là bánh “đặc sản” của vùng Savoie, nước Pháp).
Tên bánh Hoa lang từ đâu ra, mang ý nghĩa gì?
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Năm 1663 (đời Lê Huyền Tôn), mùa đông tháng mười, cấm người trong nước học đạo Hoa Lang. Trước đây có người nước Hoa Lang vào ở nước ta, lập ra đạo lạ lừa phỉnh dân ngu, đàn ông đàn bà ngu dốt nhiều người tin mộ, chỗ nhà giảng người ở hỗn tạp, trai gái không phân biệt. Trước đã đuổi người giảng đạo đi rồi, mà sách và nơi giảng hãy còn thói tệ chưa đổi. Đến đây lại nghiêm cấm.
(Chú thích: Đạo Hoa Lang tức đạo Gia Tô, gọi thế vì tôn giáo ấy đầu tiên do người Hoà Lan hay Hoa Lang truyền vào nước ta) [8].
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
– Năm Nhâm Thìn (1712) đời vua Lê Dụ Tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo Gia Tô phải cạo trán và khắc vào mặt 4 chữ “học Hoa Lan đạo”.
Hoa Lan tức là Hoà Lan (Hollande). Người Hòa Lan sang buôn bán ở ngoài Bắc trước hết cả cho nên mới gọi là đạo Hoà Lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta không phân biệt được những nước nào, hễ thấy người Tây thì thường cứ gọi là Hoà Lan.
Việt sử yếu của Hoàng Cao Khải lại đưa ra một tên khác:
– Năm 1708 dương lịch (tức năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Hưng Lê Hiển Tông), nhà vua hạ chiếu: tất cả những người nước ta theo đạo Gia Tô đều phải thích bốn chữ “Học Hoà Lang đạo” vào trán để làm nhục họ.
Năm 1714, đại phàm những giáo sĩ người Âu Châu cùng với người nước ta làm giáo trưởng (tức linh mục trở lên), giáo đồ (tức các con chiên) đều bị sát hại [9].
– Sách Cochinchine française en 1878 của Pháp, có Trương Vĩnh Ký trong ban biên tập, viết rõ rằng: Người Việt gọi các nhà hàng hải Hollandais là người Hoa Lang[10].
(Sách Kiên biểu bí lục của Chử Học Giá nhà Thanh chép: cuối năm Gia Tĩnh (1522-1566) triều Minh, Mã Đậu (Matteo Bicci, người Ý) họp tập người đồng bạn đi tàu vượt biển du lịch các nước gồm 6 năm, đến nước An Nam rồi vào địa giới Quảng Đông
Theo sách Dã Lục, thì ngày tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533), đời Lê Trang Tông, người Tây dương tên là Y-nê-xu (Ignatio) lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thuỷ (tỉnh Nam Định ngày nay), ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia Tô) [11].
Nói tóm lại, Hoa Lang, Hoa Lan, Hoà Lang hay Hoà Lan, tất cả đều là ghi âm của từ Hollandais.
Trừ một trường hợp!
Đỗ Quang Chính trích dẫn một câu nói trong sách của Cristoforo Borri, “Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam (Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng)”, và giải thích:
– Người thông ngôn đã dùng lầm những tiếng đó để hỏi một người khác có muốn gia nhập đạo Công giáo không. Vì thời ấy một số người hiểu lầm, gọi đạo Công giáo là đạo Hoa Lang, mà đạo Hoa Lang có nghĩa là đạo Bồ Đào Nha. Sở dĩ có danh từ Hoa Lang là vì, theo sự hiểu biết của chúng tôi, khi người Bồ Đào Nha tới Đàng Trong bán một thứ vải có in hoa giống như Hoa lang vì thế người ta gọi những thương gia ấy là người Hoa Lang. Các nhà truyền giáo đến Đàng Trong vào đầu thế kỷ 17 cũng bị dân chúng gọi là người Hoa Lang, tức là người Bồ Đào Nha, mặc dầu vào năm 1618 đã thấy những nhà truyền giáo Nhật, Ý, Trung Hoa tới Đàng Trong.
Muon bau dau christian chiam: Muốn vào đạo christiang chăng. Vì thấy người ta hiểu lầm về đạo Công giáo, nên L.m (Linh mục) Buzomi đã tìm được câu trên đây thay vào câu kia, để hỏi người Việt mỗi khi họ muốn vào đạo Công giáo [12].
Giải thích của Đỗ Quang Chính… gây thắc mắc cho người đọc:
– Hoa lang (lang có g) là hoa gì? Hương sắc ra sao? Có giống hoa trà (đếch thấy mùi thơm) Chu Mạnh Trinh đem tặng Nguyễn Khuyến không? Thương gia Bồ Đào Nha nổi tiếng nhờ một thứ vải in hoa lang?
– Đỗ Quang Chính dựa vào một đoạn viết của Cristoforo Borri để khẳng định rằng người Hoa Lang tức là người Bồ Đào Nha. Đạo Hoa Lang là đạo Bồ Đào Nha.
Xin dịch lại đoạn viết của Borri (đã được Bonifacy dịch sang tiếng Pháp):
– Cha Buzome (hay Buzomi) được xem một gánh hát trình diễn trước công chúng. Giữa buổi có một màn xen giúp vui. Một anh hề, mặc quần áo giống người Bồ Đào Nha, được hoá trang thành một lão bụng phệ, đằng sau lớp áo dấu một đứa bé. Trước mặt khán giả, anh hề lôi đứa bé từ trong bụng ra, hỏi nó có muốn chui lại vào trong bộ quần áo Bồ Đào Nha không? Câu hỏi là:
Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam (Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa lang chăng?).
Câu này ý nói: Bé con có muốn chui vào bụng người Bồ Đào Nha này không? Đứa bé trả lời: Muốn. Rồi chui vào bụng người Bồ Đào Nha. Chui vào rồi lại chui ra. Trò chơi cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như thế để cho khán giả cười.
Cha Buzome nghe câu nói được nhắc đi nhắc lại này thấy giống câu mấy ông thông ngôn dùng để hỏi người muốn vào đạo Gia Tô hay không, mới hiểu được sự sai lầm của người Đàng Trong tin rằng vào đạo Gia Tô là hết làm người Việt, trở thành người Bồ Đào Nha như màn kịch kia (…).
Cha Buzome bèn đổi câu nói trước kia thành:
Muon bau dau Christiam chiam (Muốn vào đạo Christiang chăng)…[13].
Đoạn văn trên không cho thấy “Hoa Lang nghĩa là người Bồ Đào Nha. Đạo Hoa Lang là đạo Bồ Đào Nha”.
Anh hề mặc bộ quần áo giống người Bồ Đào Nha, đã gây hiểu lầm Hoa Lang tức là người Bồ Đào Nha. Nếu anh hề mặc bộ quần áo Ý hay Tây Ban Nha thì Hoa Lang tức là người Ý hay người Tây Ban Nha sao?
Hoa Lang (Hollandais) là từ dùng để chỉ chung người châu Âu, không có nghĩa đặc thù là Bồ Đào Nha.
Đạo Hoa Lang là đạo Gia Tô, không phải là đạo Bồ Đào Nha.
Trở lại Bánh Hoa lang…
Có thể hiểu theo hai cách :
– Bánh Hoa lang là bánh của người Hoa Lang, nói chung là của người phương Tây, không chỉ rõ của nước nào.
– Bánh Hoa lang là bánh của đạo Hoa Lang, tức là bánh thánh hay bánh lễ của đạo Thiên Chúa.
Cha Génibrel muốn nói đến một nghi lễ quan trọng của đạo Thiên Chúa, lúc tín đồ được ăn bánh thánh Hoa Lang.
Nghĩa thứ hai này dễ chấp nhận hơn nghĩa thứ nhất.
***
Bánh Bông lan
Tự điển Khai Trí (1971) có Bánh bông lan, là bánh bột ngọt, hấp phồng xôm xốp theo hình bông lan. Bông lan là bông hoa lan.
– Lan là thứ cỏ quý có hoa thơm (Khai Trí Tiến Đức). Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai (Kiều).
– Lan là thứ cây cảnh, có nhiều loại, thân cỏ, lá thường dài và hẹp, cánh hoa không đều, có loại có hương thơm (Hoàng Phê).
– Lan là cây to lớn, hoa thơm, như mộc lan, hoàng lan.
Hình bông lan ra sao, thật khó biết.
Bánh bột ngọt, hấp phồng xôm xốp thì có nhiều thứ khác nhau.
Bánh bông lan là đặc sản của miền Nam. Điều này giúp chúng ta đi tìm hiểu.
– Theo ông Trần Văn Học là ông quan đàng cựu đời Gia Long có công vẽ ra bản đồ Sài Gòn thời ấy (1815) thì Cầu Bông, trước kia gọi là cầu Cao Mên sau đổi làm cầu Hoa (gọi làm vậy vì đây là hoa viên Lê Tả quân), rồi vì huý tên một bà phi tần của đức Minh Mạng nên gọi cầu Bông cho đến ngày nay [14].
Thời Minh Mạng, vì kị huý, Hoa được đổi thành Bông.
Lang hay Lan, có g hay không g, người miền Nam phát âm giống nhau. Hai chữ dễ bị viết sai chính tả.
Lan có thể là Lang bị viết sai, mất g.
Bánh Hoa lang ngày xưa của Génibrel đã bị nhào nặn, biến đổi thành bánh Bông lan ngày nay chăng?
***
Bánh vẽ
Từ điển Hoàng Phê định nghĩa:
– Bánh vẽ là hình vẽ chiếc bánh; thường dùng để ví cái trông có vẻ tốt đẹp; nhưng là cái không có thật, lừa bịp.
Đói ăn bánh vẽ, chiêm bao thấy vàng.
Bánh vẽ của Hoàng Phê bị Nguyễn Công Hoan bác bỏ:
– Bánh Vẽ không phải là bánh vẽ trên tờ giấy, mà là bánh của làng Vẽ (Đông Ngạc) làm vào dịp Tết.
Bánh tròn và to gần như quả pinh-pông, nhưng khi cho vào miệng, thì bị nước bọt làm nhão ra, chỉ còn có một tí. Bánh ấy cũng được gọi là “thu đa, nhập thiểu”. Vậy khối to của bánh là khối to giả dối [15].
Vào những năm 1950-1954, dân Hà Nội hay dùng hai thành ngữ “cho ăn bánh vẽ” (bị lừa), và “cho đi tàu bay giấy” (được nịnh bợ, tâng bốc lên mây xanh). Hai thành ngữ này được dân di cư mang vào Nam.
Nguyễn Công Hoan kể một giai thoại:
Ngày trước, gọi bánh mỳ (xin lỗi, chữ y… trông hơi gai mắt!) là bánh tây. Trẻ con bán bánh tây rao ở đường: Ai bánh tây ra mà mua.
Không biết ai dạy, mà nhiều trẻ lại rao trẹo ra là: Ai đánh Tây ra làm vua.
Năm 2012 vợ chồng tôi đi chơi, ghé thăm Nam Định. Tình cờ thấy ngôi mộ Tú Xương nằm trong công viên. Đêm nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Sáng sớm, giật mình nghe tiếng rao ngoài phố:
– Bánh mì Ba Lan nóng giòn ra mua!
Vật đổi sao dời. Bánh tây bị hạ bệ. Bánh mì Ba Lan lên thay thế!
***
Nói đến bánh mì mới sực nhớ “ngày xửa ngày xưa” có làm “câu đối” để tặng anh em trong nhà và bạn bè đây đó:
Ba thích ba-ghét,
Cô chửi cô-ca.
(Bánh mì baguette của Pháp, nước ngọt coca cola của Mĩ)
Nguyễn Dư
(Lyon, 10/2024)
*Henri Oger (1885-1936?) tên đầy đủ là Henri-Joseph Oger, là một người Pháp tình nguyện sang Bắc Kỳ (Việt Nam) đi lính và được biết đến qua bộ sưu tập tranh mộc bản vẽ các sinh hoạt thường nhật của người Việt vào đầu thế kỷ 20. Trong khoảng 20 tháng làm việc tại Hà Nội (từ khoảng cuối năm 1907 đến mùa hè 1909), ông là người đã cùng các họa sĩ, thợ khắc mộc bản, thợ in và các nhà Nho cố vấn (tất cả trên ba mươi người) hoàn thành tác phẩm Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam), một công trình nghiên cứu về văn minh vật chất của vùng Hà Nội vào đầu thế kỷ 20.
Nguồn: Chim Việt Cành Nam
[1]– Olivier Tessier, Philippe Le Failler, Henri Oger, Technique du peupleAnnamite, EFEO, 2009.
[2]– Vũ Văn Kính,Bảng tra Chữ Nôm sau thế kỷ XVII, Hội ngôn ngữ học Tp Hồ Chí Minh, 1994, tr. 178.
[3]– Vũ Văn Kính, Đại tự điển chữ Nôm, Văn Nghệ, 1998.
[4]– Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Thời Đại, 2011, tr. 848.
[5]– E. Bergès, Chants et Cris de la rue à Saigon, P.A.F., 1980, tr. 29.
[6]– Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, Đà Nẵng, 2004, tr. 260.
[7]– Nguyễn Khắc Huề, Notice sur le “Bánh ngói”, BSEI, 1903, tr. 65.
[8]– Đại Việt sử ký toàn thư, tập 4, Khoa Học Xã Hội, 1968, tr. 298, 364.
[9]– Hoàng Cao Khải,Việt sử yếu, Nghệ An, 2007, tr. 374.
[10]– Cochinchine française en 1878, Challamel, 1878, tr. 241.
[11]– Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, tập 2,
Giáo Dục, 1998, tr. 301.
[12]– Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Ra Khơi, 1972, tr. 30-31.
[13]– Bonifacy, Relation de la nouvelle Mission au Royaume de la Cochinchine, BAVH, 7-12/1931, tr. 339-340.
[14]– Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Xuân Thu tái bản, tr. 169.
[15]– Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Trẻ, 2004, tr. 260.