Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một khuôn mặt văn chương hàng đầu của Văn học miền Nam. Ông sinh ra tại ngoại ô Hà Nội lớn lên trong thời kỳ kháng chiến, dạy học ở Hà Nội và Nam Định, rồi di cư vào Nam năm 1954. Ông vừa mất tại Hoa Kỳ, thọ 102 tuổi.
Doãn Quốc Sỹ vừa là tên thật vừa là bút hiệu của ông. Ông sinh ngày 17/02/1923 tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội. Ông từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó rời khỏi. Vợ ông là con gái nhà thơ Tú Mỡ. 1954 ông đưa gia đình di cư vào Nam.
NHÀ GIÁO DOÃN QUỐC SỸ
Ông được mọi người và học sinh quý trọng vì tấm lòng đôn hậu và tận tâm của một bậc thầy, vì thế ông được mệnh danh là một kẻ sĩ chân chính. Ông bắt đầu dạy học (1951-1952) tại trường trung học Nguyễn Khuyến, Nam Định, kế đến là Chu Văn An, Hà Nội (1952-1953). Khi vào miền Nam, ông tiếp tục dạy học trường Trần Lục, Sài Gòn (1953-1960). Sau đó, ông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường trung học công lập Hà Tiên (1960-1961). Trong những năm đầu thập niên 60, ông là giảng sư các trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn và trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ngoài ra, ông được du học tại Hoa Kỳ về ngành giáo dục và về nước tiếp tục giảng dạy cho đến năm 1975.
NHÀ VĂN DOÃN QUỐC SỸ
Trong tiệc mừng thượng thọ 100của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, GS. Nguyễn văn Sâm đã vinh danh Doãn Quốc Sỹ là: “nhà văn của thế kỷ 20” Thật vậy, ông rất xứng đáng được ban tặng tước hiệu này qua phẩm chất đức độ cao quý của một kẻ sĩ và là nhà văn tài ba đã sáng tác nhiều tác phẩm trong thế kỷ 20. Qua những tác phẩm mà Doãn Quốc Sỹ viết đã chứng tỏ được tính chất đích thực của một kẻ sĩ phương đông – luôn chân thành và tin vào những điều tốt đẹp của cuộc sống và hướng về chân trời tốt đẹp của CHÂN THIỆN MỸ. Sau khi di cư vào miền Nam, thể chế chính trị của Việt Nam chuyển từ Quân chủ Lập hiến sang Dân Chủ Cộng hòa; đồng thời nền văn học bấy giờ ở miền Nam cũng phát triển theo chiều hướng đa dạng và phong phú hơn. Doãn Quốc Sỹ là gương mặt hàng đầu trong những nhà văn nổi tiếng như: Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Bình Nguyên Lộc , Nguyên Sa, Võ Phiến v.v…của hai mươi năm văn học miền Nam, Việt Nam ( 1954-1975). Ông cũng là một cây bút chủ lực trong nhóm tạp chí Sáng Tạo. Tác nhân chính nào đã tạo nên sự chuyển hướng lớn lao về văn học này? Phải nói đến cuộc di cư từ Bắc vào Nam vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Hàng triệu người Bắc đã bầm gan tím ruột khi phải rời xa nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ lại làng mạc mồ mả tổ tiên để tìm đến vùng đất tự do. Yếu tố tâm lý này đã khuấy động mãnh liệt lòng người; nhờ thế mà các nhà văn, điển hình là Doãn Quốc Sỹ đã cho thành hình những tác phẩm văn chương của thời cuộc thật mạnh mẽ. Định mệnh đã đưa đẩy con người đi vào những nẻo đường khác nhau, như những chuyến xe của cuộc đời, kẻ đi hướng này người về hướng khác, mà chúng ta được tìm thấy trong trường thiên tiểu thuyết KHU RỪNG LAU hay DÒNG SÔNG ĐỊNH MỆNH, BA SINH HƯƠNG LỬA, GÌN VÀNG GIỮ NGỌC, CHIẾC CHIẾU HOA CẠP ĐIỀU. ĐI, v.v…
Sau 1975 ông bị đi tù cải tạo đến 1980. Ra khỏi trại, trong thời gian chờ con gái bảo lãnh đi Úc ông viết một số tác phẩm gửi ra hải ngoại và năm 1984 lại bị bắt kêu án 10 năm tù đến 1991 thì được ra, và sau đó 1995 định cư Hoa Kỳ.
Tác phẩm của ông gồm bộ trường thiên “Khu Rừng Lau” có bốn cuốn :Ba sinh hương lửa, Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, Tình yêu thánh hóa, Đàm thoại ,Độc thoại ; truyện dài Dòng sông định mệnh, Sầu mây, Đốt biên giới; truyện ngắn Gìn vàng giữ ngọc, Cánh tay nối dài, U hoài, Gánh xiếc; tùy bút Vào thiền; khảo luận Người Việt đáng yêu;…