Chương 2 của cuốn sách “Kiến trúc phố cổ Hội An” (Nhà xuất bản Thế Giới, 2006), vốn là kỷ yếu của Hội thảo quốc tế về phố cổ Hội An tại Đà Nẵng (1990), cho biết về sự ra đời của thương cảng Hội An: “Thế kỷ XVI, XVII là thời kỳ các thương nhân châu Âu chú ý nhiều hơn đến các vùng đất ở Đông Nam Á và các hoạt động giao thương Đông – Tây được đẩy mạnh. Thời kỳ này cũng là thời kỳ người Nhật và người Hoa bắt đầu chú ý đến những sản vật của các nước Đông Nam Á như tơ lụa, đường, hương liệu… từ đó đã hình thành nên khu phố người Nhật tại các địa phương khác nhau. Thời kỳ này Hội An được người nước ngoài chú ý đến như là nơi có vị trí trung gian giữa biển Nam và biển Đông, nhưng thực chất Hội An được mở ra như một thương cảng mậu dịch quốc tế và thúc đẩy nó phát triển là do chính sách chính trị của chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong lúc bấy giờ.
Nửa sau thế kỷ XVI, chúa Nguyễn tiến về Nam, Hội An ra đời:
Hội An ra đời vào khoảng nửa sau thế kỷ XVI. Lúc đó ở Việt Nam là thời kỳ của triều Lê, nhưng năm 1527, do tướng Mạc Đăng Dung nổi dậy lật đổ triều đình, Việt Nam bước vào giai đoạn 275 năm đất nước bị phân chia. Vùng đất dưới quyền cai trị của nhà Mạc chủ yếu là vùng Đông Kinh (đồng bằng sông Hồng), còn vùng đất phía Nam từ Thanh Hoá trở vào nguyên là kinh đô cũ của nhà Lê thì hình thành một thế lực chống lại nhà Mạc. Năm 1532, Nguyễn Kim đứng sau nhà Lê tập hợp binh sĩ tại Thanh Hoá và bắt đầu gây chiến tranh với nhà Mạc. Sau khi Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm kế tục nắm giữ quyền hành, dòng họ Nguyễn Kim bị lấn át nên năm 1558, người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng cùng gia tộc và một số quân lính vào trấn thủ ở vùng Thuận Hoá. Thời kỳ này Nguyễn Hoàng xây dựng cứ điểm ở Quảng Trị. Sau đó chuyển đến Trà Bát và dần dần thiết lập quyền thống trị tại Trung bộ. Sau năm 1570, Nguyễn Hoàng tiếp tục làm trấn thủ Quảng Nam, trên thực tế vùng cai trị của Nguyễn Hoàng được gọi là vùng Thuận – Quảng. Nguyễn Hoàng ra sức mở mang việc giao lưu buôn bán với nước ngoài, nhờ đó mà Hội An được chọn làm thương cảng quốc tế” (Kiến trúc phố cổ Hội An, tr. 23).
Trong tác phẩm “Exploring Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng and Tam Kỳ”, nhà sử học Tim Doling đã viết về sự vươn lên của thương cảng Hội An vào thời chúa Nguyễn Hoàng và chúa Nguyễn Phúc Nguyên: “Cảng cũ của Champa trên sông Thu Bồn về phía Đông Nam đã trở thành một trung tâm giao thương thu hút các thương nhân đến từ Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Trung Đông. Tuy nhiên tiềm năng thật sự của cảng này với tính cách là một trung tâm giao thương hàng hải chỉ được nhận ra sau năm 1569, khi Quảng Nam được cai quản bởi vị chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng (1525-1613). Sau khi trở về Thanh Hóa để ra mắt vua Lê vào năm 1569, Nguyễn Hoàng được cử làm trấn thủ Quảng Nam thay thế viên quan Nguyễn Bá Quýnh. Vùng đất Thuận Quảng (ngày nay là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) của Nguyễn Hoàng tương ứng với lãnh thổ trước đây của Vương quốc Champa Amavarati. Việc cai quản Quảng Nam có ý nghĩa hệ trọng đối với Nguyễn Hoàng về nhiều mặt, không phải chỉ vì tầm quan trọng của vùng đất này về nông nghiệp: vùng đất Thuận Hóa vừa hẹp, vừa khô cằn, trong khi Quảng Nam là vùng đất màu mỡ hơn.
Ngay từ đầu, Nguyễn Hoàng đã tổ chức chính quyền của mình dựa trên lực lượng quân sự, nhanh chóng xây dựng một đạo quân trên bộ và thuỷ quân. Ông vẫn bày tỏ lòng trung thành với chính quyền của chúa Trịnh ở Thăng Long, nhưng sau năm 1600, ông và con trai ông là Nguyễn Phúc Nguyên càng lúc càng xa cách triều đình của vua Lê – chúa Trịnh và tự xưng là những người lãnh đạo “Quảng Nam quốc”. Việc quân sự hóa chính quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất được gọi là Đàng Trong từ thập niên 1620 đã tạo điều kiện cho vị chúa Nguyễn thứ hai là Nguyễn Phúc Nguyên cắt đứt mọi liên hệ với chúa Trịnh và bắt đầu một cuộc chiến kéo dài 50 năm với Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Chi phí cho cuộc chiến khá cao, nhưng ngay từ buổi ban đầu, Nguyễn Hoàng đã nhận ra rằng ông có thể có một nguồn thu khá lớn từ việc đánh thuế các thuyền buôn đến cảng giao thương trên sông Thu Bồn mà ngày nay được gọi là Hội An, còn trước kia được người nước ngoài gọi là Faifo.
Từ năm 1602, cảng của Sa Huỳnh và của người Chàm đã được gọi bằng những cái tên khác nhau, trong đó đáng kể nhất là Faifo và Hội An. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tên Faifo có xuất xứ từ Hoài Phố được nhắc tới trong tác phẩm “Ô Châu Cận Lục” của Dương Văn An như là một trong 66 xã của huyện Điện Bàn. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng Faifo có xuất xứ từ việc mô tả hai phố của cộng đồng người Hoa và cộng đồng người Nhật vào tiền bán thế kỷ XVI” (Exploring Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng, tr. 20, 22, 23).
GS K. W. Taylor đã nhận định về vai trò của thương cảng Hội An: “Các thuyền buôn của Bồ Đào Nha trên đường đến Goa, Malacca, Macau và Nhật thường đến giao thương ở cảng Hội An gần đó, nơi đã có sẵn cộng đồng thương nhân Trung Hoa và Nhật Bản. Hội An nổi tiếng là một hải cảng được điều hành tốt, có mức thuế vừa phải, với những quan hệ dễ dàng với cư dân bản địa và nơi người ta có thể tìm thấy những sản phẩm của Nhật, Trung Quốc, Chân Lạp, Xiêm, các đảo ở Đông Nam Á và của địa phương.
Các giáo sĩ dòng Tên tại Macao đã lập ra phái bộ truyền giáo đầu tiên cho người Việt tại Quảng Nam vào năm 1615 và vào năm 1618, họ lập ra trú sở truyền giáo thứ hai tại Bình Định. Nguyễn Phúc Nguyên thi hành chính sách hữu hảo với người nước ngoài vì hiểu rõ rằng giao thương sẽ làm cho Thuận Quảng giàu mạnh. Ông cũng đặc biệt quan tâm đến việc giữ quan hệ tốt đẹp với người Bồ Đào Nha vì mối quan hệ này tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận với công nghệ quân sự của phương Tây, đặc biệt là đại bác và súng hỏa mai…” (A History of the Vietnamese, tr. 270)
HUỲNH DUY LỘC giới thệu
Ảnh: TP Hội An đang chìm trong biển nước