Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử – Võ Hoài Nam (1930-2025)

0 165

Nhà văn Tiểu Tử qua đời
1. Nhà văn Tiểu Tử:

Họ tên: Võ Hoài Nam
Sanh năm: 1930
Nguyên quán: Gò Dầu Hạ (Tây Ninh)
Bút hiệu: Tiểu Tử
Ông là con trai duy nhứt của giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.

Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955.
Dạy lý hoá trung học Petrus Ký: 1955/1956.
Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm tháng 10 năm 1956 đến 30/04/1975.
Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay.
Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979/1982.
Làm việc cho hãng dầu SHELL Côte d’ Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp.
Trước 1975, giữ mục biếm văn “Trò Ðời” của nhựt báo Tiến.
Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d’Ivoire.
Tập truyện “Những Mảnh Vụn” (Làng Văn Toronto xuất bản) là tập truyện đầu tay.
Bài ca vọng-cổ
Cái Loa
Cái mặt
Cái miệng
Chị Tư Ù
Chiếc khăn mu-soa
Chợ trời
Chuyện Bình Thường
Chuyện chẳng có gì hết
Chuyện di tản 1975
Chuyện Giả Tưởng
Chuyện ở quê tôi
Chuyện thuở giao thời
Cơm nguội
Con Mẹ Hàng Xóm
Con Mén
Con số 3
Con rạch nhỏ quê mình
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Đám cưới ngày xưa
Đạp xích lô
Đèn Trung Thu
Đi Xe Đò, Đi Xe Ôm
Giọt mưa trên tóc
Làm Thinh
Lẫn
Made in Việt Nam
Mài Dao Mài Kéo
Mũ “bảo hiểm”
Mùa Thu Cuộc Tình
Ngày nầy, năm 1975 …
Người Bán Liêm Sỉ
Người Viết Mướn
Ngụy
Những câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử – Tường An, thông tín viên RFA
Những chuyện nho nhỏ…
Những hình ảnh đẹp
Nói
Nói: Hết rồi!
Nói Láo
Nội!
Ông già ngồi bươi đống rác
Ông Năm Từ
Tấm vạc giường
Thằng Chó Đẻ của Má
Thằng dân
Thằng đi mất biệt
Thằng Khùng
Thầy Năm Chén
Thèm
Tiết Nhơn Quí
Tóc Trắng
Tô cháo huyết
Tôi đi bầu
Tôi nằm gác tay lên trán
Tôi… xém làm kép cải lương
Vẫn Còn Cái Gốc
Viết một chuyện tình
Vọng cổ buồn …
Xíu.

2. Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử

Người ta hay hỏi tôi: “Quê ông ở đâu?” – Câu hỏi nghe giản dị, mà trả lời thì… khó hơn đi thi vô Petrus Ký. Bởi lẽ, cái quê của tôi, cái chỗ chôn nhau cắt rún, tôi đã bỏ ra đi từ lâu, từ cái thuở biển dâu, thời cuộc cuốn người ta ra khỏi vòng tay của ngõ xóm, của hàng dừa, hàng cau, của mái nhà lợp lá. Ấy thế mà, mỗi đêm khi nằm trên chiếc giường ấm áp, tôi vẫn thấy quê hương trở lại, rõ mồn một, như một bức tranh khắc sâu trong ký ức: nghèo trớt mùng tơi, mà vẫn thương, vẫn nhớ đến xót xa.

Có anh bạn văn thường nhậu nhẹt với tôi, hay hỏi vặn:

Khi nào ông “dìa” quê?
Muốn “dìa”, nhưng đâu biết quê đâu mà dìa!
Ảnh cười khề khà:

Thôi thì ông tấp về quê tui đi, ngay đất Tân Định nè.
Nghe vậy mới ngớ người ra. Té ra, đối với ảnh, quê không phải là xứ khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, mà chính là mảnh đất Sài Gòn nơi mình cất tiếng khóc chào đời. Cái quê ấy có mùi khói thuốc rê, có tiếng guốc mộc của các bà, có những con hẻm nhỏ mà tuổi thơ rong chơi, đánh lộn tới u đầu sứt trán.

Tân Định – cái đất ấy đã nuôi lớn bao thế hệ. Từ đường Trần Quang Khải, quẹo qua Trần Nhật Duật, thẳng tới bờ kinh Nhiêu Lộc, những con đường nhỏ như Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quý Khoách, Trần Khánh Dư, đã in dấu chân của học trò trường Văn Lang, của những giấc mộng tuổi trẻ. Và cũng từ nơi ấy, bao nhiêu phận đời đã bước ra, đi khắp năm châu, mà khi tóc bạc vẫn còn ngoái lại, nhớ da diết từng mái hiên, từng ngọn đèn đường.

Trong số những người đi qua đất Tân Định, có một người đặc biệt: nhà văn Tiểu Tử.

Ông sinh năm 1932, tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, rồi về dạy tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký vào những năm 1955–1956.

Sau biến cố 1975, ông vượt biên, định cư ở Pháp, và từ đó, văn chương trở thành cách để ông bắc nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.

Tôi biết đến Tiểu Tử qua truyện ngắn “Tô cháo huyết”. Và khi nghe tin ông qua đời trên đất Pháp, lòng tôi bỗng dưng nghẹn lại.

Câu chuyện ông kể tưởng như vụn vặt, mà hóa ra thấm đẫm tình người, tình quê. Hình ảnh một người ngày xưa, trên đường đi làm về ghé xe cháo huyết của bà xẩm già ở gần rạp Casino Đa Kao. Bà bày cái nồi cháo nghi ngút khói, với vài miếng huyết vuông vức nổi lên trên. Ông múc một muỗng, vừa có cháo vừa có huyết, thổi cho nguội rồi cho vào miệng. Hương vị ấy, dân dã mà ấm áp, như gói cả hồn Tân Định.

Nhưng đời dân Sài Gòn sau cuộc đổi đời từ nghèo sang mạt sau tháng Tư năm 1975 đâu phải lúc nào cũng có tiền. Có khi cả tháng rỗng túi, ông né luôn cái xe cháo của bà xẩm, chỉ vì sợ mình thèm. Cho đến một hôm, bà mời:

Vô ăn đi thầy Hai, lâu quá mà…
Tôi không có tiền! – Ông đáp, thật thà đến bật khóc.
Không có thì cũng vô ăn, chừng nào trả cũng được. Mình quen mà!
Ông viết: “Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghẹn ngang ở cổ, làm tôi ứa nước mắt.”

Chao ôi! Một tô cháo huyết mà chan chứa nghĩa tình. Nó không còn là món ăn của bụng đói, mà là của tình người nơi xóm cũ. Để rồi hơn nửa thế kỷ sau, ở tận trời Âu, ông vẫn còn nhớ như in, nhớ đến nhói tim, nhớ đến mức viết thành một truyện ngắn để gửi gắm nỗi lòng.

Tôi đọc truyện ấy mà thấy mình rưng rưng buồn trong tấc dạ. Bởi mỗi người tha hương đều có một “tô cháo huyết” riêng trong ký ức. Với nhà văn Tiểu Tử, đó chính là xe cháo huyết của bà xẩm Tân Định. Và khi ông kể lại, không phải chỉ kể một món ăn, mà là kể về một quê hương đã mất, kể về cái tình người Sài Gòn xưa, kể về một thời mà “ăn chịu” không phải chuyện đáng xấu hổ, mà là biểu hiện của tin cậy, của chia sẻ, của đồng bào.

Tin ông mất khiến tôi buồn như mây chiều trôi. Hình dung nơi nghĩa trang lạnh lẽo ở Pháp, có một nấm mộ mới của một người từng viết: “Tôi đi để lại đường xưa.” Đường xưa ấy chính là Trần Quang Khải, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn Giai, Bùi Hữu Nghĩa… những con đường quanh Tân Định, đã nuôi dưỡng tâm hồn và văn chương của ông.

Có lẽ, trong giây phút cuối đời, ông vẫn còn nhớ tô cháo huyết năm nào. Và chúng tôi, những kẻ hậu sinh, đọc văn ông mà thấy trong cổ họng mình cũng nghèn nghẹn, như chính ông đã nghẹn ngày xưa.

Giờ ngồi viết những dòng này, tôi nhớ tới bạn bè, nhớ tới những buổi nhậu lai rai mà kể chuyện quê xưa. Tôi nhớ tới cảnh học trò chen chúc thi vào Petrus Ký nơi dạy của nhà văn Tiểu Tử với cái tên Võ Hoài Nam tiền định sống phải xa quê.

Tôi nhớ tới nhà văn Tiểu Tử, một kiếp người long đong phiêu bạt, nhưng đã kịp để lại cho đời những trang văn chan chứa tình quê, tình người. Cái tên “Tiểu Tử” nghe thì nhỏ nhoi, mà văn ông lại lớn lao, bởi ông đã nói hộ cho cả một thế hệ lưu lạc: quê hương không bao giờ mất, nó sống mãi trong từng mùi vị, từng ký ức, từng khói bốc lên từ nồi cháo huyết chiều nào.

Thưa Thầy, ở phương trời xa ấy, xin Thầy an nghỉ. Trần gian này thiếu vắng Thầy, nhưng những dòng chữ Thầy để lại, những ký ức về một tô cháo huyết bình dị, sẽ còn sống mãi. Để cho những đứa con xa quê, mỗi lần nhớ Sài Gòn xưa, lại tìm thấy bóng dáng mình trong câu văn mộc mạc mà rưng rưng của Thầy.

Hu hu… Tôi viết mà mắt cứ nhòa đi.

Đoàn Xuân Thu

Melbourne, 18-9-2025

Nguồn: https://www.facebook.com/thu.doan.75/posts/pfbid0t2uB7Vd2xwCVuCjGHLtLfMbA8v7RRrHefb3tHBu4v3gb3KidnJf3LBViSSo8kGLtl



Tiểu Tử là cây bút của tình người, của sự mộc mạc, bình dị và chân chất. Qua ông, là sự phảng phất của cái đẹp nơi tâm hồn của những mảnh đời cơ cực, đẫm nước mắt nhưng nhuộm thắm tình người và nụ cười trong bối cảnh bi thảm và nhiễu nhương,…

Cái tâm, sự nhân từ luôn là điểm kết dưới ngòi bút dân dã và độc đáo của ông. Văn phong Tiểu Tử dễ đi vào lòng người đọc, khiến người ta bất chợt thầm khóc với những giọt nước mắt chứa đọng bao nỗi niềm và tâm tư mang máng.

Tiểu Tử là sự thầm lặng, miệt mài thậm chí cô đơn của sự gian truân nơi đồng quê miền Nam đầy nhớ thương và nơi xứ người lưu lạc, tha hương nặng trĩu con tim.

Nhớ Tiểu Tử là nhớ về Tô cháo huyết đậm tình người mà chỉ có ông, với tất cả sự chân thật thân thương đã khiến cả những trái tim sỏi đá cũng mềm lòng và thổn thức về sự cay nghiệt của thời thế đổi thay:

“Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:

– Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo!

Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít từng hơi mùi thơm mời mọc.

Giọng bà xẩm ôn tồn:

– Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.

Ngừng một chút rồi tiếp:

– Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà… Phải thông cảm với nhau chớ! Thầy Hai hiểu tôi không?

Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ…”, rồi nín thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn… Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết!

Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:

– Không! Không! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím!

– Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà! Không tính tiền!

Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà! Ăn đi!”. Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt… Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao…”

Và chợt khóc khi ông tả lại cuộc gặp gỡ giữa hai mảnh đời Việt tha hương tận Phi châu xa xôi:

“Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ:

– Trời ơi!… Bác là người Việt Nam hả?

Rồi hắn vỗ lên ngực:

– Con cũng là người Việt Nam nè!

Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe môt xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt…

Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:

– Trời ơi!… Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!… Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt… con mừng “hết lớn” bác à!”

Ôi thương làm sao “Con cũng là người Việt Nam nè!”

“nè” với bao dịu hiền, gần gũi và thân thương. Cứ như một giấc mơ, mới chỉ hôm trước, mới thoáng qua thôi…

Vĩnh biệt Tiểu Tử là chia tay với cái đẹp nhân nhân hậu và chút ít tính dân dã còn sót lại trong thời đại sóng gió, đầy rẫy sự chia rẻ, hận thù và sự trỗi dậy ngày càng nguy hiểm của chủ nghĩa dân tuý tưởng chừng đã bị mai một để rơi vào lãng quên.

Lâm Bình Duy Nhiên

18-9-2025

Nguồn: https://www.facebook.com/duynhienlambinh/posts/pfbid02cUpjgEcTCb4Xokam4XU76CeRHBbCvR3AfCAVswfmUEKqd8YH2ELZceyJcjfGBQJRl



Leave A Reply

Your email address will not be published.