Đạo Công giáo bắt đầu được truyền bá ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XVII như ghi chép của linh mục Trương Bá Cần đã chỉ rõ: “Ở Đàng Trong của Đại Việt, ngày 18.1.1615, xuất phát từ Macao, một đoàn truyền giáo do linh mục Francesco Buzomi dẫn đầu, đã đặt chân lên đất Đà Nẵng, rồi sau đó nhiều nhà truyền giáo nữa của Dòng Tên tiếp tục lên đường. Trong số các tu sĩ Dòng Tên hoạt động ở Đàng Trong suốt thời kỳ này, nổi bật hơn cả là 2 linh mục Buzomi và Alexandre de Rhodes…”.
Mãi đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, đạo Tin lành mới được truyền bá ở Việt Nam và cửa ngõ để đạo Tin lành vào Việt Nam cũng vẫn là Đà Nẵng.

So với các tôn giáo khác từ bên ngoài du nhập vào Việt Nam, đạo Tin lành đến Việt Nam muộn hơn, quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành ở Việt Nam gắn với The Christian and Missionary Alliance (Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp), tiền thân của Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam.
Năm 1887, mục sư Albert Benjamin Simpson của Canada – người sáng lập Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp khi đến truyền giáo ở vùng Hoa Nam (Trung Quốc) đã sang nghiên cứu tình hình ở Việt Nam. Sau khi ở Việt Nam về, mục sư Simpson đã viết trên một tạp chí: “Miền bán đảo Đông Dương đã bị lãng quên quá nhiều. Vương quốc An Nam phải vâng phục Đấng Christ. Tại sao Vương quốc An Nam này cùng với Tây Tạng lại không được dân sự của Đức Chúa trời xem như một trong những khu vực truyền giáo đầu tiên của cuộc tiến hành mới?”.
Năm 1893, mục sư A Leclacheur, một cộng sự của mục sư Albert Benjamin Simpson, đã đến Saigon để khảo sát tình hình. Khi về, ông báo cáo với mục sư Albert Benjamin Simpson: “Cánh cửa tại Việt Nam cũng như toàn xứ Đông Dương thuộc Pháp đã mở cho việc rao giảng Tin lành”. Tuy nhiên từ năm 1893 đến năm 1911, nhiều mục sư của Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp ở nước ngoài đã tìm cách đến để truyền bá đạo Tin lành vào Việt Nam nhưng đều không có kết quả.
Đến năm 1911, mục sư R.A.Jaffray cùng với hai cộng sự là Hosler và G.L.Hugles đã đến được Đà Nẵng và nhờ ông Bonnet thuộc tổ chức Thánh thơ Công hội giúp đỡ, đã xây dựng được cơ sở truyền giáo đầu tiên tại Đà Nẵng và năm 1911 được xem là cột mốc để khởi đầu việc truyền bá đạo Tin lành vào Việt Nam. Việc lập được cơ sở truyền giáo đầu tiên tại Đà Nẵng đã làm cho các lãnh đạo hết sức phấn khởi và mục sư Albert Benjamin Simpson đã tiếp tục bổ sung lực lượng giáo sĩ vào Việt Nam để phát triển đạo (nếu năm 1914 có 9 giáo sĩ thì năm 1921 có 18 giáo sĩ và năm 1927 có gần 30 giáo sĩ).
Từ Đà Nẵng, các giáo sĩ Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp đã mở rộng việc truyền đạo qua các vùng lân cận và cử người đi truyền đạo ở miền Bắc và miền Trung. Sau 7 năm truyền giáo, đến năm 1918, Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp đã thành lập được 5 Chi hội ở Bắc Kỳ, 6 Chi hội ở Trung kỳ và 5 Chi hội ở Nam kỳ. Vào thời điểm này, tất cả các chi hội đều có giấy phép hoạt động của Khâm sứ Pháp, Chính phủ Nam triều và đều lấy tên gọi là “Hội thánh Tin lành Đông Pháp”.

Từ năm 1914 đến năm 1925, với sự giúp đỡ của một số văn sĩ người Việt, trong đó có Phan Khôi, các giáo sĩ Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp đã cho dịch Kinh thánh ra chữ quốc ngữ để hỗ trợ cho việc truyền giáo. Trong khoảng thời gian này, hoạt động của đạo Tin lành cũng có một số dấu ấn nhất định: năm 1921, một nhà thờ Tin lành đã được xây dựng tại Hà Nội và trường Kinh thánh cũng đã được mở tại Đà Nẵng; trong 3 năm liên tiếp (1924, 1925, 1926), tại Đà Nẵng, Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp đã tổ chức bồi linh hiệp nguyện có tính chất như Đại hội đồng để giải quyết các công việc của đạo. Đến năm 1927, Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp tổ chức Đại hội đồng lần thứ IV để chính thức bầu ra Ban Trị sự Tổng Liên hội do mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội truởng và đặt tên là Hội Tin lành Việt Nam Đông Pháp. Đến Đại hội đồng lần V (1928) đã thông qua Điều lệ và đến Đại hội đồng lần thứ VIII (1936), Điều lệ mới chính thức được phê duyệt và thi hành. Riêng về tên gọi, mãi đến năm 1945, Hội thánh Tin lành Đông Pháp mới đổi tên thành Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam.
Trải qua một thời gian hoạt động, đến năm 1954, khi đất nước bị chia cắt làm 2 miền thì Hội thánh Tin lành Việt Nam cũng bị chia làm 2 tổ chức: Tin lành Việt Nam (miền Nam) và Tin lành Việt Nam (miền Bắc); 2 tổ chức này sau khi bị chia tách đã có quá trình phát triển khác nhau.
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)
Những năm 1954-1975, Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp đã đầu tư tiền của, phương tiện, đội ngũ giáo sĩ để giúp Hội thánh Tin lành Việt Nam ở miền Nam xây dựng tổ chức, mở rộng các cơ sở tôn giáo, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thời kỳ này, cả Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp và Hội thánh Tin lành Việt Nam ở miền Nam đều rất chú trọng đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông: trong giai đoạn này, Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Nam đã phát hành rất nhiều ấn phẩm truyền giáo như: năm 1955 có khoảng 5 triệu trang in; năm 1958 có khoảng 17 triệu trang in; năm 1963 có khoảng 23 triệu trang in; năm 1966 có khoảng 42 triệu trang in…); xuất bản tờ Thánh kinh báo (về sau đổi tên thành Thánh kinh nguyệt san), tờ Niềm tin và tờ Đuốc thiêng; năm 1954, phát hành 130 đĩa nhựa ghi 436 bài giảng Kinh Thánh và 354 bài thánh ca; có chương trình phát thanh hàng tuần trên Đài Phát thanh của chính quyền Saigon.
Về tổ chức, Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Nam xây dựng cơ cấu tổ chức gồm có 3 cấp là Tổng liên hội, Địa hạt và Chi hội. Năm 1962, Đại hội đồng Tổng Liên hội lần thứ 30 đã xác định Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Nam có 4 địa hạt: Bắc Trung hạt, Nam Trung phần, Nam phần và Thượng du (Tây nguyên). Năm 1969, Đại hội đồng Tổng liên hội lần thứ 36 chia địa hạt Nam phần thành hai địa hạt: Đông Nam phần và Tây Nam phần; chia địa hạt Thượng du thành hai địa hạt là Trung thượng du và Nam thượng du. Đến năm 1973, Hội đồng Tổng liên hội lần thứ 39 đã chia địa hạt Tây Nam phần thành hai địa hạt: Trung Nam hạt và Tây Nam hạt; các địa hạt này tồn tại cho đến ngày miền Nam giải phóng. Năm 1976, Đại hội đồng Tổng liên hội lần thứ 42 họp tại TP.HCM đã chia lại các địa hạt thành 5 địa hạt và đặt tên gọi mới cho các địa hạt: Địa hạt liên hội Trung Trung bộ; Địa hạt liên hội Nam Trung bộ; Địa hạt liên hội Đông Nam bộ; Địa hạt liên hội Trung Nam bộ; Địa hạt Liên hội Tây Nam bộ.
Bên cạnh việc kiện toàn về tổ chức, trong giai đoạn này, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) cũng rất quan tâm đến việc đào tạo mục sư, truyền đạo cho giáo hội. Năm 1960, trường Kinh Thánh Đà Nẵng chuyển ra Hòn Chồng (Nha Trang) và đổi tên là Thánh kinh thần học viện với chương trình đào tạo cử nhân (5 năm) và hàm thụ (3 năm). Với hoạt động trên, đến năm 1975, Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Nam trở thành tổ chức Tin lành lớn ở Việt Nam với 146.000 tín đồ; 190 mục sư; 167 truyền đạo; 155 truyền đạo sinh; 530 chi hội.
HUỲNH DUY LỘC
Ảnh: Mục Sư Albert Benjamin Simpson, các giáo sĩ và tín đồ Tin lành đầu tiên tại Tourane (Đà Nẵng)