Kỳ Diệu Cơm Niêu

TVN

0 84

Cơm Niêu
Trước khi nồi nhôm, nồi gang, hay nồi điện thống trị gian bếp, người Việt đã gửi gắm niềm tin vào những chiếc nồi đất mộc mạc. Nồi đất nhờ có đáy tròn và miệng nhỏ nên giữ ấm lâu mà chẳng cần vật liệu giữ nhiệt. Loại nồi đất nhỏ xinh nấu đủ một người ăn được gọi là niêu.

Nói về niêu, ca dao Việt từng tâm sự với giọng buồn man mác như tiếng đàn bầu trong đêm trăng:

Tìm duyên mà chẳng thấy duyên,

Một niêu cơm tám, chín tiền cá rô.”

Một niêu cơm nhỏ, một dĩa cá rô, một người lặng lẽ ăn bữa tối đơn sơ giữa chiều tà chạng vạng. Sức truyền cảm của câu thơ dân gian khiến ta phải ngỡ ngàng.

Nhưng đừng vội nghĩ cơm niêu chỉ gắn với nỗi buồn. Ca dao còn vang lên một giọng điệu khác, mạnh mẽ và kiêu hãnh như ngọn gió thoải mái bay giữa cánh đồng:

“Cô kia nước lọ cơm niêu,

Chồng con chả có, nằm liều nuôi thân.

– Chồng con là cái nợ nần,

Chẳng thà ở vậy nuôi thân béo mầm.”

Nhìn coi, cô gái trong ca dao chẳng hề e ngại ánh mắt dò xét của làng quê phong kiến! Niêu cơm của cô không chỉ là bữa ăn, mà còn là tuyên ngôn độc lập, dường như cô đang xắn tay áo tứ thân, cười vang và nói: “Tôi tự nuôi mình, cần gì ai!” Xưa kia, những nữ anh hùng đất Việt như Hai Bà Trưng, Bà Triệu đã cưỡi voi đánh giặc, tung hoành giữa trời cao đất rộng. Chả trách câu ca dao này cũng mang khí chất phóng khoáng, tự do ấy. Một niêu cơm nhỏ bé tượng trưng cho sự kiên cường của người phụ nữ Việt Nam.

Niêu cơm Thạch Sanh
Truyện thơ nôm Thạch Sanh ra đời cuối thế kỷ 18, với 1812 câu thơ lục bát. Thạch Sanh giỏi giang và hào hiệp, dù Lý Thông ghen ghét hãm hại nhiều lần vẫn không thắng được chàng. Chàng đánh bại kẻ thù, được Vua gả công chúa, khiến hoàng tử các nước khác tức tối như mèo bị giật mất cá. Họ kéo quân đến, hùng hổ đòi phân cao thấp. Thạch Sanh chỉ nhẹ nhàng gảy một khúc đàn. Sức mạnh thuyết phục của tiếng đàn khiến các nước tự cầu hòa, xin bữa cơm ăn để rút lui.

Thạch Sanh mang ra niêu cơm nhỏ xíu, đặt trước đám quân đói meo. Các hoàng tử cười khẩy, nhưng khi họ và quân lính xúm vào ăn, ăn đến no căng mà cơm vẫn đầy niêu. Truyện thơ kể lại cảnh này với giọng điệu hóm hỉnh như bà cụ ngồi kể chuyện cho con cháu nghe bên hiên nhà:

“Thạch Sanh mời các nước ăn,

Ăn mãi không hết no lăn bụng tròn.

Mà niêu cơm nhỏ vẫn còn,

Các nước thấy vậy phục tròn mắt ra!”

Niêu cơm Thạch Sanh không chỉ là phép màu cổ tích, mà còn là biểu tượng sẻ chia từ một tâm hồn nhân hậu. Đọc lại truyện Thạch Sanh, niêu cơm ấy nhắc ta nhớ rằng lòng tốt trong một hành động nhỏ bé có thể làm nên điều kỳ diệu lớn lao.

Niêu Đất Trù Sơn
Biết đâu cái niêu cơm thần kỳ của Thạch Sanh lại được nặn nên từ những đôi bàn tay khéo léo ở làng niêu Trù Sơn, tỉnh Nghệ An không chừng. Từ thế kỷ 13, người Trù Sơn đã tỉ mỉ nặn nồi niêu bằng đất sét mịn màng. Họ không dùng máy móc, chỉ có bàn tay lành nghề và ngọn lửa cháy bỏng từ rơm rạ, lá bạch đàn, phi lao để làm ra những chiếc nồi niêu đẹp và bền.

Sau khi nung, niêu đất Trù Sơn rạng rỡ màu hồng cam hoặc đỏ nhạt của đất sét nung vừa đủ độ. Niêu đất tuy cứng cáp nhưng nhẹ tênh, giữ hơi ấm và hương thơm của cơm lâu đến bất ngờ. Buồn thay, những nghệ nhân Trù Sơn tóc điểm bạc đang lo lắng nhìn thế hệ trẻ quay lưng với nghề. Như lò nung đang chờ tiếp lửa, làng niêu Trù Sơn đang đứng trước ngã ba đường: tồn tại hay lụi tàn?

Từ đầu thế kỷ 21, người Việt bắt đầu trân trọng trở lại hương vị của cơm niêu. Cơm nấu trong niêu luôn dẻo thơm, lớp bao ngoài vàng ươm giòn rụm. Lúc đầu các nhà hàng thịnh hành món “cơm đập”: đập vỡ niêu để lấy cơm ra. Một cách đối xử rẻ rúng với niêu cơm – thứ đáng được trân trọng về giá trị ẩm thực, lịch sử và văn hóa. Thập niên 2020 đã có thay đổi: niêu được xử lý tốt hơn để dùng lại nhiều lần. Đây là cơ hội cho các làng làm nồi niêu đất tăng chất lượng sản phẩm và giá bán, không chỉ riêng Trù Sơn.

Hơn nữa, niêu đất đâu chỉ để nấu cơm? Kho cá, kho thịt đều ngon bá cháy. Lửa kho nho nhỏ, nước sôi liu riu, gia vị ngấm từ từ làm thịt cá thắm thía, mềm thơm. Ngày xưa niêu cá vừa sôi lăn tăn sẽ được đậy kín, ủ trong mồi rơm to, để cá chín từ từ, thịt săn chắc, xương mềm rục. Cá kho niêu đất mãi là hương vị khó quên.

Nếu các làng gốm sản xuất những chiếc niêu thân thiện với người dùng như không dính, dễ rửa, nấu được trên bếp gas, lò điện hay lò vi sóng, thì nhu cầu lẽ nào không tăng? Cũng cần thêm niêu cho hai người hay bốn người ăn để phù hợp với gia đình trong thời đại mới.

Tục Thổi Cơm Thi
Hàng trăm năm trước, ở những ngôi làng Bắc Bộ, người Việt không chỉ nấu cơm mà còn biến nó thành một cuộc thi gay cấn chẳng kém gì giải MasterChef thời hiện đại. Họ gọi đó là tục thổi cơm thi, và xin thưa, chữ “thổi” ở đây không phải kiểu hà hơi cho cơm nguội, mà là nghệ thuật canh lửa và nước để gạo nấu thành cơm ngon.

Hãy tưởng tượng bạn là một người nước ngoài lần đầu lạc vào làng quê Việt Nam, tròn mắt nhìn các bà, các cô xăn tay áo, hí hoáy nhóm lửa bằng rơm rạ, củi ướt, hay thậm chí bã mía tươi. Còn nồi nấu là loại niêu đất tròn ủm, miệng nhỏ, mỏng manh dễ vỡ.

Các cuộc thổi cơm thi không đơn thuần là việc nấu ra một niêu cơm ngon. Nó là bài kiểm tra khắc nghiệt, nơi người dự thi vừa là đầu bếp, nghệ sĩ xiếc, và chiến binh quả cảm. Họ phải nấu cơm trên thuyền thúng chòng chành giữa đầm nước, như đang biểu diễn xiếc. Hay vừa gánh quang gánh, vừa giữ lửa, vừa hát đối đáp, như một ngôi sao ca nhạc vừa hát, vừa nhảy, vừa nướng bánh mì trong lò! Có khi họ còn phải trông trẻ, vừa dỗ em bé, vừa canh chừng niêu cơm sôi sùng sục. Thử hỏi có cuộc thi nấu ăn nào trên đời “đa nhiệm” như vậy không?

Học giả Toan Ánh từng mô tả trong Hội Hè Đình Đám quyển Thượng (Nam Chi Tùng Thư, 1969, tr. 38-39) về hội đình thôn Hạc Đình (Vĩnh Phúc) ngày giáp Tết. Các cô thiếu nữ ngồi trên thuyền thúng giữa đầm nước, vừa giữ thăng bằng, vừa canh lửa, chắn gió để nấu cơm và đồ xôi bằng rơm ướt. Rơm ướt, khó cháy biết chừng nào! Vậy mà họ vẫn khiến nước sôi, cơm chín, xôi thơm. Người thắng cuộc không chỉ được vinh danh trong lễ cúng đình, mà còn là cô dâu tương lai được săn đón nhất của làng.

Trong Thương Nhớ Mười Hai (NXB Văn Học, 1993, tr. 156), văn sĩ Vũ Bằng miêu tả nồi cơm thắng cuộc như một tác phẩm nghệ thuật: “Cơm dự thi mà được coi là khéo phải hội hai điều kiện: một là cơm phải mịn như cơm nắm, đổ ở nồi ra có thể lấy dao cắt thành miếng một mà cấm không có cháy hay có vỏ bao lấy cơm; hai là cái nồi đất thổi cơm không được bén lửa, nấu cơm rồi mà cái trôn nồi vẫn còn nguyên.”

Tiếc thay, tục thổi cơm thi giờ đây như ngọn lửa lập lòe trong gió, chỉ còn le lói ở vài ngôi làng như Chuông (Hà Nội), Tích Sơn (Vĩnh Phúc), hay Tam Tảo (Bắc Ninh). Thời nay, khi nồi cơm điện thống trị, khi củi rơm bị thay bằng gas và điện, làm sao giữ lại được truyền thống hay ho này đây?

Có lẽ các làng quê Việt Nam cần biến phong tục này thành sân khấu văn hóa, nơi người trẻ được học cách nhóm lửa, nấu cơm bằng rơm ướt, và cảm nhận sự ngon lành thi vị của cơm niêu. Các lớp dạy nấu cơm niêu nên được mở ra thường xuyên và mời các cụ bà từng là “cao thủ thổi cơm” truyền bí kíp. Còn gì đẹp hơn hình ảnh các cô gái trẻ hôm nay xúng xính áo tứ thân, ngồi bên bếp lửa học cách thổi cơm niêu như đang học một điệu múa cổ đầy chất thơ.

Chỉ khi đó, cái tinh thần quả cảm của chiến binh Đại Việt vừa hành quân vừa thổi cơm và sự khéo léo đa nhiệm của người Việt xưa mới có thể được truyền thừa cho con cháu. Được vậy, chiếc niêu đất kỳ diệu sẽ không chỉ tồn tại mà còn trở thành di sản quý giá trong kho tàng văn hóa và ẩm thực Việt Nam.

Theo mlefood – Minh Lê

Facebook: https://www.facebook.com/leminhnt.le

Leave A Reply

Your email address will not be published.