Khi mới 25 tuổi, Petrus Trương Vĩnh Ký đã thông thạo 26 ngôn ngữ, khiến cho nhà văn Pháp Émile Littré (1801-1881) kinh ngạc: “Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác học ngôn ngữ bậc nhất thời nay”.
Ngay từ thập kỷ 50 – 60 của thế kỷ 19, Trương Vĩnh Ký (hiệu Sĩ Tài) đã thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Latin…
Riêng đối với báo chí viết chữ Quốc ngữ tại Việt Nam, ông được coi là người tiên phong vì đã sáng lập, là Tổng biên tập tờ báo viết chữ quốc ngữ đầu tiên mang tên là Gia Định báo.
Là người am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, ông đã được kết nạp làm thành viên thứ 18 của hội “Savants du Monde”, một hội gồm nhiều nhà khoa học, văn học Pháp. Tuy nhiên, ông cũng bị phê phán vì đã trợ giúp cho thực dân Pháp xâm chiếm và cai trị Việt Nam, và làm cố vấn cho Pháp trong việc đàn áp Phong trào Cần Vương của những người kháng chiến chống Pháp. Có những người đã xếp Trương Vĩnh Ký vào nhóm người Việt cộng tác với thực dân Pháp tiêu biểu trong thế kỷ 19, cùng với Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan.
Bài viết này chỉ tập trung nói về sự học của Trương Vĩnh Ký, lĩnh vực đã đưa ông trở thành “danh nhân thế giới” trong cuốn Bách khoa Tự điển Larousse của Pháp.
Cha của ông là Trương Chánh Thi – một nhà Nho học, thích thi phú, được bổ nhiệm làm lãnh binh dưới triều Minh Mạng của nhà Nguyễn. Lúc 3 tuổi Petrus Ký đã thuộc làu Tam tự kinh. Ông học viết năm 4 tuổi, tới 5 tuổi thì đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo Học. Chỉ vài năm sau, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống…
Ngoài ra, theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Ký đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống…
Cùng lúc đó, ông được một nhà truyền giáo thường được mọi người gọi là cha Tám đã chỉ dạy cho cậu bé Trương Vĩnh Ký học chữ Latin, chữ Nôm và ít chữ sau này gọi chữ “Quốc ngữ“. Thời điểm đó đạo Thiên Chúa bị triều đình Huế cấm, nên cha Tám phải trốn tránh và được ông Trương Chánh Thi đưa về nhà ở, đãi rất hậu, và ông là người thầy dạy chữ Quốc ngữ đầu tiên cho Trương Vĩnh Ký.
Đây có thể là một bước ngoặt lịch sử vì sau đó Trương Vĩnh Ký là người Việt Nam đầu tiên và tích cực nhất phát triển chữ viết này. Năm 1845, khi Trương Vĩnh Ký lên 9 thì cha của ông đột ngột qua đời lúc đang đi sứ ở Cao Miên. Cha Tám thương cậu bé mồ côi, nhận thấy cậu Ký còn nhỏ mà có đầu óc thông minh hơn người, chỉ biết thú đọc sách hơn đi chơi đùa, có chí cầu tiến, đã gửi cậu Ký cho một người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) nhận nuôi dạy Trương Vĩnh Ký về tiếng Latin và tiếng Pháp năm 1846.
Rồi ông Thừa Hòa phải đi xa nên đã nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Ký. Năm 1848, vua Tự Đức mới lên ngôi thực thi việc cấm đạo nghiêm ngặt, Trương Vĩnh Ký khi đó 11 tuổi được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia) – nằm giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Phnom Penh độ 6 dặm, dành cho học trò cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa.
Lớp học có 25 học sinh từ 13-15 tuổi và Trương Vĩnh Ký là người nhỏ nhất. Trương Vĩnh Ký gặp gỡ, ăn ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Ciampois (Chăm)… Kết quả: cậu thiếu niên 13 tuổi Ký đã nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên của các bạn cùng trường. Trương Vĩnh Ký còn học ngoại ngữ ở các sách và tự điển có trong thư viện của nhà trường.
Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Ký đã tự tìm ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng. Vào ngày mãn khóa học ở chủng viện Pinhalu, Trương Vĩnh Ký được chọn là một học sinh xuất sắc, đỗ đầu lớp và được tuyển lựa cùng hai người nữa để tiếp tục đi học ở đảo Penang, Malaysia. Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (một hòn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia. Đây là ngôi trường đạo lớn nhất khắp vùng Á Đông thời đó.
Đường đi từ Cao Miên tới Penang rất xa xôi gian khổ, Trương Vĩnh Kỹ phải cưỡi voi cùng với Cố Long và vài bạn học, dự định đi qua ngả Vọng Các (Bangkok). Lúc đi tới giữa rừng rậm thì voi bị sảy chạy mất, mang theo tất cả hành lý, may nhờ lúc đó có người đi ngang qua giúp đỡ, tháp tùng đi tiếp cuộc hành trình.
Khi tới biển Hồ, mấy thầy trò mướn thuyền qua tới giữa chừng thì thuyền đắm, cũng may gặp thuyền khác vớt được và đưa về Angkor Wat – khi đó vẫn chưa được thế giới biết tới. Ban đầu họ định đi Penang qua ngõ Vọng Các (Bangkok), nhưng lúc này từ Angkor Wat Trương Vĩnh Ký vòng ngược về Sài Gòn thăm mẹ trong vài ngày rồi mới đón thuyền đi Singapore để tới Penang. Khi đến nơi, Trương Vĩnh Ký rất ngạc nhiên khi thấy một vùng đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Cao Miên.
Nếu như ở Cao Miên, Trương Vĩnh Ký đã học thông thạo được hầu hết các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á, thì tại Penang, ông được học thêm các loại ngôn ngữ phổ biến khác ở Á Châu là tiếng Nhật, Ấn, Malaysia, và đặc biệt là tiếng các nước châu Âu. Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký học chuyên ngữ Latin và Hy Lạp, và tài năng, đầu óc, trí tuệ thông minh của Trương Vĩnh Ký phát huy tột độ. Ông học một hiểu mười nhờ trí nhớ lâu dài, sách vở ở thư viện và giảng dạy của nhà trường.
Trong cuộc thi học chữ Hy Lạp và Latin, ông thắng giải nhất và được thưởng học bổng $100 do chính ông quan Toàn quyền người Anh trao tặng. Trường ở Penang không dạy tiếng Pháp, nhưng Trương Vĩnh Ký vẫn tình cờ học được. Lúc đó ông đi dạo trong sân trường thì thấy có một tờ giấy dưới đất, ghi chữ ký tự latin mấy dòng thơ. Dù chưa được học qua nhưng ông vẫn tự mày mò để dịch dựa theo hiểu biết về tiếng latin đã được học ở trường, sau đó mang cho giáo sư (thầy dạy) của mình xem. Ông thầy thấy rất làm lạ về một cậu học trò chưa từng được học tiếng Pháp nhưng có thể dịch được bài thơ chữ Pháp một cách bập bõm như vậy. Biết cậu có tài năng siêu phàm về ngôn ngữ nên đưa cho Trương Vĩnh Ký các loại sách học tiếng Pháp và dạy kèm thêm ngoài giờ.
Chẳng bao lâu ông thông thạo tiếng Pháp và sau khi trở về Việt Nam trở thành thông ngôn cho người Pháp khi thực dân Pháp tới xâm chiếm Đông Dương chỉ vài năm sau đó. Niềm háo hức học ngôn ngữ mới của Trương Vĩnh Ký không dừng lại ở đó, ông chuyển qua học tiếng Anh, tiếng Nhật và cả Ấn Độ, và tất cả đều là tự học qua các tờ báo, vì sách học không có, cả sách văn học cũng không, và ông học chữ bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà tìm ra các mẹo luật văn phạm.
Ông cũng trau giồi thêm các thứ tiếng đó qua bạn bè, vì ngôi trường này tập trung rất nhiều học trò từ nhiều nước khác nhau, mỗi người nói một thứ tiếng. Như đã nói ở trên, trường ở Penang chỉ chuyên 2 ngôn ngữ Hy Lạp và Latin, và bằng việc tự học, chỉ trong 7 năm ở đây, ông đã thông thạo nhiều loại ngôn ngữ là Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Malaysia, Nhật Bản, Pháp, Ý… Nhờ vậy nên sau đó ông đọc được rất nhiều sách Hán, Pháp, Anh, Hy Lạp, Tây Ban Nha… tiếp nhận được rất nhiều tư tưởng, kiến thức của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt của mình..
Nhà nhiếp ảnh người Anh là J.Thomson viết quyển “Mười năm du lịch Trung Quốc và Đông Dương”, trong đó có đoạn: “Một hôm đến thăm Trương Vĩnh Ký, tôi thấy ông đang soạn sách Phân tích so sánh các ngôn ngữ chủ yếu trên thế giới, tác phẩm này ông bỏ ra nhiều năm làm việc cần cù. Chung quanh ông đầy những quyển sách quý và hiếm mà ông tìm kiếm được ở châu Âu, châu Á…”.
Với trí thông minh, sự sắc sảo thiên bẩm và chí phấn đấu cao, lại chịu khó tìm tòi, tự học trong một ngôi trường đa sắc tộc, nên Trương Vĩnh Ký đã thông thạo các ngoại ngữ phổ biến ở khu vực lúc bấy giờ. Như vậy, việc học ngoại ngữ của Pétrus Ký được thực hiện một cách khoa học; có phân tích, đối chiếu giữa các thứ tiếng. Và trên hết là sự lao động miệt mài, công phu, chứ không đơn thuần chỉ dựa vào trí thông minh như nhiều người nghĩ. Càng khâm phục hơn khi biết rằng việc học tập của ông vô cùng vất vả, nhiều ngoại ngữ ông học từ chính những người bạn học của mình, đúng như ông bà ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”. Trương Vĩnh Ký thông thạo và nắm vững quy luật học các ngoại ngữ của các quốc gia trong khu vực và đã truyền kinh nghiệm của mình qua việc xuất bản sách.
Vào cuối thập niên 1880, ông đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia. Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français.
Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm). Émile Littré, nhà văn Pháp, năm 1862 đã viết: “Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha… hay người Nhựt Bổn, Mã Lai, Xiêm… Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó…
Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay”. Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse. Tượng Petrus Ký bên cạnh Nhà thờ Đức Bà Nhận định về Petrus Ký Học giả Pháp Jean Bouchot cuối thế kỷ 19 khẳng định Trương Vĩnh Ký là “một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cả với nước Trung Hoa hiện đại”. Ông viết: “Người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa học…”.
Nhà văn Sơn Nam: “Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch…Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam. Thiệt là quan thầy của cả và Nam Kỳ…”.
Giáo sư Thanh Lãng: “Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn… Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là “cách nói tiếng An Nam ròng” và viết “trơn tuột như lời nói”. Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn.
Nhà nghiên cứu Lê Thanh: “Từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.
Nguồn: Tổng hợp