Những con diều sa mạc bí ẩn tại Israel, Jordan, Ai Cập

TVN

0 309

Vào những năm 1920, các phi công của Không quân Hoàng gia Anh bay qua các sa mạc của Israel, Jordan và Ai Cập đã nhìn thấy những hình dạng đường kẻ kỳ lạ trên mặt đất mà họ đặt tên là “Diều sa mạc” vì hình dạng của chúng, khi nhìn từ trên không, khiến họ liên tưởng đến những con diều đang bay.

Đây là lần đầu tiên những người đàn ông da trắng nhìn thấy những hình thù bí ẩn này, mặc dù người Bedouin địa phương đã biết chúng trong hàng ngàn năm. Kể từ khi phát hiện ra chúng, hàng ngàn con diều sa mạc đã được xác định phân bố khắp bán đảo Ả Rập và Sinai và xa về phía bắc đến tận đông nam Thổ Nhĩ Kỳ.

Diều sa mạc bao gồm hai bức tường đá khô thấp, có độ dày và chiều cao thay đổi, bắt đầu cách xa nhau và dần dần tiến lại gần nhau hơn để tạo thành hình chữ V hoặc hình phễu. Lỗ mở hẹp ở cuối phễu dẫn đến một vòng tròn bao quanh hoặc một cái hố. Vòng tròn bao quanh có thể có đường kính từ vài mét đến một trăm mét và các bức tường có thể kéo dài hàng trăm mét và thậm chí là vài km.

Hình dạng và bằng chứng khảo cổ học của chúng cho thấy rằng những cấu trúc đá rộng lớn này có thể đã hoạt động như những cái bẫy thú, được thiết kế để bắt một số lượng lớn động vật hoang dã.

Các nhà khảo cổ học từ lâu đã nghi ngờ rằng những cấu trúc hình phễu bí ẩn này được sử dụng để săn bắt động vật, chủ yếu là linh dương gazelle, nhưng cho đến tận năm 2011, không có cấu trúc nào được kiểm tra đưa ra bất kỳ bằng chứng khảo cổ nào về động vật bị giết. Bốn năm trước, một nhóm các nhà khảo cổ học từ Israel và Hoa Kỳ đã phát hiện ra một mỏ xương linh dương Ba Tư đáng chú ý từ thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên tại một địa điểm ở đông bắc Syria, cung cấp bằng chứng trực tiếp về việc sử dụng diều để săn linh dương gazelle vào thời kỳ hậu đồ đá mới.

Hầu hết diều sa mạc được chế tạo từ năm 4000 TCN đến năm 2000 TCN nhưng một số công trình này có thể có niên đại từ năm 8000 TCN. Giống như Buffalo Jumps , diều sa mạc thường được chế tạo ở những nơi môi trường tự nhiên thuận lợi cho nỗ lực săn bắt. Đất phải bằng phẳng và nằm giữa các khe núi hẹp hoặc wadi. Một số diều sử dụng hố sâu từ 6 đến 15 mét thay vì chuồng nhốt, và một đoạn đường dốc dẫn lên cao nhẹ nhàng được xây dựng để tăng độ dốc ở cuối. Độ dốc hướng lên cũng ngăn cản động vật tăng đủ tốc độ để nhảy ra khỏi hố và qua chuồng nhốt. Một số bức tường đá được xây thành các ô nhỏ để động vật không thể thoát ra ngoài.

Một nhóm thợ săn sẽ đuổi hoặc dồn những con thú lớn vào đầu rộng rồi đuổi chúng xuống phễu đến đầu hẹp, nơi chúng sẽ bị nhốt trong hố hoặc chuồng đá và dễ dàng bị giết hàng loạt. Việc săn bắt và chế biến những con thú này hẳn phải có sự tham gia của rất nhiều người. Diều phải được chế tạo và bảo dưỡng, còn động vật di cư phải được định vị và sau đó được những người đi săn lùa vào diều, nơi thợ săn đang chờ để giết chúng. Sau đó, xác động vật phải được lột da và thịt được vận chuyển trở lại khu định cư của chúng.

Việc săn bắt bừa bãi linh dương bằng súng hiện đại vẫn tiếp diễn cho đến tận thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Từng là một trong những loài móng guốc hoang dã phổ biến nhất ở Levant, linh dương bướu cổ hiện là loài bị đe dọa chỉ còn tồn tại dưới dạng quần thể còn sót lại trong các khu vực được bảo vệ.

Nguồn: National Geographic / About.com

Leave A Reply

Your email address will not be published.