Louis Pasteur, người tìm ra văcxin phòng dại
TVN
Louis Pasteur sinh năm 1822 tại vùng Dole (Jura, nước Pháp). Bố ông sau khi giải ngũ trở về chỉ làm nghề thuộc da và rất nghèo. Cụ mong đợi con trai trở thành một thầy giáo vì nghĩ rằng làm thầy giáo thì nhàn hạ hơn nghề thuộc da của ông.
Thuở nhỏ, Pasteur rất mê học vẽ và ai cũng tưởng sau này cậu sẽ trở thành một họa sĩ. Năm 19 tuổi, Pasteur đỗ tú tài văn chương và trở thành người phụ giảng ở trường trung học này; một năm sau nhận thêm bằng tú tài toán tại Dijon. Sau đó, ông thi đỗ vào ENS – trường cao đẳng sư phạm danh tiếng ở Paris và tốt nghiệp cử nhân khoa học, được cử làm giáo viên của Trường trung học Tournon ở Ardèche. Nhưng với lòng ham mê nghiên cứu khoa học, Pasteur xin ở lại Trường ENS để làm kỹ thuật viên hóa học. Ông được làm việc tại phòng thí nghiệm của viện sĩ Balard và có dịp gặp giáo sư Laurant ở đó. Vị giáo sư này nhận thấy ở Pasteur tiềm ẩn một tài năng và nhận làm trợ lý nghiên cứu cho mình.
Ở tuổi 25, Pasteur nhận bằng tiến sĩ khoa học. Trong những năm 1861-1862, ông đã công bố các nghiên cứu về việc rượu vang xuất khẩu bị chua là do tác động của các vi khuẩn acetic và được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học. Một năm sau, Napoléon III yêu cầu ông nghiên cứu về các bệnh ở nho, về ảnh hưởng của ôxy đối với quá trình sản xuất rượu vang. Pasteur cũng công bố các nghiên cứu về bệnh của tằm và phương pháp khử trùng mới của mình: khử trùng ở 63 độ C trong 30 phút hoặc 72 độ C trong 15 giây.
Năm 1868, Pasteur nhận bằng bác sĩ y khoa ở Đại học Bonn (Đức) và được thưởng Bắc đẩu bội tinh. Sau đó thật không may, ông bị liệt nửa người trái, nhưng con người khoa học trong ông vẫn vượng sức với sự lao động miệt mài và không ngừng sáng tạo. Nhà khoa học này đã nghiên cứu về bệnh than và sự nhiễm trùng máu, công bố lý thuyết về mầm bệnh và việc ứng dụng chúng trong y học, về sự hoại thư và về sốt hậu sản.
59 tuổi, Luis Pasteur công bố các nghiên cứu về bệnh sốt vàng và thành công trong việc chế tạo văcxin chống bệnh than. Sau đó, ông nghiên cứu về bệnh đóng dấu ở lợn và chế tạo ra văcxin phòng bệnh này.
Tháng 7 năm 1885 là mốc rất quan trọng trong lịch sử y học, khi ông thành công trong việc sử dụng văcxin chống bệnh dại ở người. Bệnh nhân là cháu bé Joseph Meister, 9 tuổi, bị chó dại cắn 14 vết rất nặng trên tay. Mặc dầu đã thử nghiệm nhiều lần văcxin của mình trên động vật nhưng Pasteur rất hồi hộp khi phải bắt buộc dùng trên cơ thể người vì giữa người và vật có nhiều điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau… Nhưng chỉ ít hôm sau, ông đã sung sướng viết cho con mình để báo tin Joseph Meister đã ra viện, 3 vết tiêm sau cùng của cháu hơi bị tấy đỏ nhưng không can gì. Cháu vẫn ăn ngon, ngủ yên, không sốt…
Sau 3 tháng và 21 ngày tiêm thuốc, bé Meister vẫn khỏe mạnh như thường. Và Pasteur báo cáo về thành công này trước Viện Hàn lâm khoa học Pháp. Chủ tịch Viện nói: “Vinh quang thay cho nền khoa học khi phát minh ra phương pháp chống bệnh dại – một bệnh khủng khiếp mà bao nhiêu thế kỷ nay chưa ai thoát khỏi tử vong. Từ hôm nay, nhân loại đã được trang bị một vũ khí để chống lại căn bệnh quái ác này”.
Một tháng sau đó, Pasteur được bầu làm thư ký vĩnh viễn của Viện Hàn lâm khoa học Pháp, nhưng ông lại bị liệt nốt nửa người phải. Cũng trong năm này, ông tham gia vào thực nghiệm dùng vi khuẩn để tiêu diệt đàn thỏ sinh sản quá mức trong môi trường tự nhiên ở Australia. 10 năm sau, Pasteur qua đời sau một cơn urê huyết cấp.
Khoảng 3 năm sau khi thử nghiệm thành công văcxin dại, Viện Pasteur đầu tiên đã được khánh thành ở Paris. Sau đó, các viện Pasteur lần lượt mọc lên ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, và hàng chục triệu liều văcxin chống dại đã được sản xuất.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)