Nhớ về cố hương yêu dấu xa xưa

Phạm Hiền Mây

0 116

NHỚ VỀ CỐ HƯƠNG YÊU DẤU XA XƯA!

******

I. PHẠM DUY VÀ CA KHÚC VỀ MIỀN TRUNG

Phạm Duy kể: Cũng vẫn trong năm 1948, rời Quảng Trị, tôi vào Thừa Thiên. Sau khi ở chiến khu một thời gian, tôi xuống miền đồng bằng công tác và sống trong nhà đồng bào tại vùng bị giặc chiếm. Đây là vùng Đại Lược với câu ca dao: Tình về Đại Lược / Duyên ngược Kim Long / Tới đây là chỗ rẽ của lòng / Gặp nhau còn biết trên sông bến nào.

Ở Đại Lược, nửa đêm, tôi thường đến thôn Vĩ Dạ để gặp các văn nghệ sĩ của thành phố Huế. Tôi viết bài Về Miền Trung vào thời gian này.

******

II. CA KHÚC VỀ MIỀN TRUNG

Về Miền Trung, nghĩa là về Huế. Huế, với những làn điệu hò dặt dìu rất đặc trưng. Huế, với những làn điệu dân ca cổ truyền, những làn điệu của cung đình một thời vàng son rực rỡ.

Về Miền Trung, có những đoạn ai oán, nhưng lại có những đoạn hùng hồn, sảng khoái, vui tươi.

VỀ MIỀN TRUNG

Về miền Trung
Miền thùy dương bóng dừa ngàn thông
Thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông dài
Ôi quê hương xứ dân gầy
Ôi bông lúa
Con sông xưa, thành phố cũ

Về miền Trung
Người về đây sống cùng người dân
Lửa chinh chiến cháy bừng thôn làng điêu tàn
Ðêm hôm nao gió u buồn
Trên sông vắng
Có tiếng hát xao xuyến ánh trăng vàng

Hò hô hò, hò hố hô
Người đi trên đống tro tàn
Thương em, nhớ mẹ hương vàng về đâu
Chiều khô nước mắt rưng sầu
Thương thân thiếu phụ, khóc đầu hài nhi
Hò hố, hò hô

Hà hớ hơ
Nhớ thương về phía xa mờ
Biết bao người sống mong chờ
Hát rằng
Hà há hơ
Nhớ về cố hương yêu dấu xa xưa

Về miền Trung
Còn chờ mong núi về đồng xanh
Một chiều nao đốt lửa rực đô thành
Tay trong tay chúng ta về
Quê hương cũ
Không than van, không sầu nhớ

Về miền Trung
Đoàn người ca hát mừng thành công
Lửa ấm áp bếp nhà ai hồng, đêm trùng
Ðêm hôm nay tiếng dân nồng
Vang thôn xóm
Có tiếng hát xao xuyến ánh trăng vàng

Hò hô hò, hò hố hô
Về đây với lúa, với nàng
Thay bao nỗi khổ tiếng đàn (tôi) mừng reo
Nguồn vui đã tới với dân nghèo
Con sông nước chảy, tiếng chèo hò khoan
Hò hố, hò hô

Hà hớ hơ
Tiếng ai vừa hát qua làng
Lúc em gặt lúa trên đồng
Hát rằng
Hà há hơ
Tiếng cười, tiếng ca trên lúa trên sông.

******

II.1. MIỀN THÙY DƯƠNG BÓNG DỪA NGÀN THÔNG

Về miền Trung
Miền thùy dương bóng dừa ngàn thông
Thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông dài
Ôi quê hương xứ dân gầy
Ôi bông lúa
Con sông xưa, thành phố cũ

Tiếng hát của bà Thái Thanh, khi ngân dài Về… Miền… Trung… , đã tạo cho tôi một cảm giác rất lạ. Giọng kéo dài ấy, sao tôi thấy tựa như hình dáng của nước mình, không dưng đến cái khúc miền Trung là lẹm vào, thắt vào, mỏng dính.

Con sông trong câu ca, tự dưng vì thế mà cũng buồn thỉu buồn thiu, mặc dù Phạm Duy đã vẽ vào đó, những chiếc “thuyền ngược xuôi”. Ngược xuôi này, không tạo ra vẻ đông đúc, tấp nập, phồn vinh, mà trái lại, ngược xuôi này, dường như nghiêng về ngược xuôi của đầu tắt mặt tối, của vất vả quanh năm, nhưng cũng chẳng đủ để đắp đổi qua ngày.

Thế nên mới, ôi quê hương xứ dân gầy, gầy như bông lúa, và cũ, cũ như thành phố cũ, và xưa, xưa như con sông xưa.

Buồn nhưng đẹp. Là xứ Huế xinh đẹp, cố đô xưa mỹ miều, với liễu rủ dịu dàng ven sông, với hàng dừa bình yên xanh ngăn ngắt, và với rừng thông vừa hùng vĩ vừa tráng lệ “miền thùy dương bóng dừa ngàn thông”.

Ở khổ một này, Phạm Duy nói: Motif hay Melody của tôi là có hơi thở, rộng rãi, và rất Lyric (nên thơ).

******

II.2. CÓ TIẾNG HÁT XAO XUYẾN ÁNH TRĂNG VÀNG

Về miền Trung
Người về đây sống cùng người dân
Lửa chinh chiến cháy bừng thôn làng điêu tàn
Ðêm hôm nao gió u buồn
Trên sông vắng
Có tiếng hát xao xuyến ánh trăng vàng

Miền Trung, đất nghèo. Miền Trung, đất buồn. Người dân miền Trung cũng nghèo và buồn như đất. Làm sao mà vui được, làm sao mà an tâm làm ăn được, bởi chinh chiến cứ kéo dài.

Nhìn quanh, chỉ lửa cháy điêu tàn. Và về đêm, chỉ có gió u buồn trên sông và chỉ có tiếng hát, tiếng hát làm xao xuyến, xao động, bồi hồi cả trăng vàng.

Ở khổ hai này, Phạm Duy nói: Vẫn là Motif đó, nhưng trong hai periphrases sau đây, phần Melody có sự thay đổi, nghĩa là giai điệu sau là sự phát triển (development) của Motif trước.

Lời bài hát, lời bài thơ, theo năm tháng, thường được chính tác giả sửa chữa lại, bởi rất nhiều lý do.

Cụ thể như ở khổ thứ hai này, Phạm Duy đã sửa từ “căm hờn” thành từ “u buồn”.

******

II.3. THƯƠNG EM NHỚ MẸ HƯƠNG VÀNG VỀ ĐÂU

Hò hô hò, hò hố hô
Người đi trên đống tro tàn
Thương em, nhớ mẹ hương vàng về đâu
Chiều khô nước mắt rưng sầu
Thương thân thiếu phụ, khóc đầu hài nhi
Hò hố, hò hô

Phần điệp khúc, điệu nhạc thay đổi như nhịp hành quân. Tiếng hò cũng cất cao hơn, vang hơn, xa hơn, mà sao nỗi ngậm ngùi, nỗi oán thán, nỗi phẫn hận, cùng với nỗi thương em, nhớ mẹ của “người đi trên đống tro tàn”, vẫn cứ mãi khôn nguôi.

“Thương em nhớ mẹ hương vàng về đâu”, nếu nói đây là một câu thơ, thì quả là, khó nhà thơ nào qua được Phạm Duy, bởi chính câu này lắm.

Hương vàng về đâu? Nén tâm hương gửi cho những người bị thiệt mạng trong chiến tranh, biết có tới được vong linh họ? Hương vàng về đâu? Nào ai biết về đâu.

Nào ai biết.

Nắng gió miền Trung khiến buổi chiều tà cũng trở nên nứt nẻ như mặt đất cằn khô, thế mà, nước mắt ở đâu cứ rưng rưng, ầng ậc, không làm sao ngăn được trước thảm cảnh đau thương “tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi”.

Ở khổ thứ ba này, câu “tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi” (Tinh Hoa 1950), đã được Phạm Duy sửa lại “thương thân thiếu phụ, khóc đầu hài nhi” (Gìn Vàng Giữ Ngọc 1971).

******

II.4. NHỚ THƯƠNG VỀ PHÍA XA MỜ

Hà hớ hơ
Nhớ thương về phía xa mờ
Biết bao người sống mong chờ
Hát rằng
Hà há hơ
Nhớ về cố hương yêu dấu xa xưa

Các ca khúc Kháng Chiến Ca của Phạm Duy ở giai đoạn này, tức là từ năm 1950 đổ về trước, hầu hết, đều mang âm hưởng ngọt ngào của làn điệu dân ca, của những câu ca dao, mà chỉ cần ngân nga lên thôi, cũng đã đốn tim người nghe, lịm tim người hát.

Bà Thái Thanh là người Bắc, vậy mà chẳng hiểu sao, tôi nghe ra rất Huế ở khúc này. Tiếng Huế ấy mà, buồn lắm. Người Huế cũng vậy. Họ thâm trầm, sâu kín và đầy vẻ chịu đựng.

Câu, nhớ về cố hương yêu dấu xa xưa, lên rồi xuống, xuống rồi lên, thiệt là biết làm người nghe đau, thiệt là biết làm người nghe sầu, thiệt là biết làm người nghe không thể không nhớ thương, thương nhớ.

Nhớ cố hương là nỗi niềm thường trực. Nó đau đáu, khắc khoải và triền miên.

Ở khổ thứ tư này, Phạm Duy đã thay từ “chiến khu” thành “phía xa”; “căm thù” thành “mong chờ”; và “quyết” thành “nhớ”.

******

II.5. TAY TRONG TAY CHÚNG TA VỀ QUÊ HƯƠNG CŨ

Về miền Trung
Còn chờ mong núi về đồng xanh
Một chiều nao đốt lửa rực đô thành
Tay trong tay chúng ta về
Quê hương cũ
Không than van, không sầu nhớ

Sang đến khổ thứ năm này, điệu nhạc từ u buồn than thở, đã trở nên tươi tắn hơn, hy vọng vào tương lai hơn.

Chúng mình hãy cùng nhau hẹn ước. Như núi hẹn đồng xanh. Như ngày vui chiến thành đợi ngọn lửa rực sáng đô thành. Như tay hẹn nắm lấy tay. Như quê hương xưa hẹn người về trùng phùng, sum hợp.

Không than van, không sầu nhớ nữa.

Ở khổ thứ năm, Phạm Duy đã đổi “ngày mai sắm sửa về” thành “chiều nao đốt lửa rực”; đổi “dắt nhau” thành “chúng ta”; đổi “não” thành “nhớ”.

******

II.6. LỬA ẤM ÁP BẾP NHÀ AI HỒNG ĐÊM TRÙNG

Về miền Trung
Đoàn người ca hát mừng thành công
Lửa ấm áp bếp nhà ai hồng, đêm trùng
Ðêm hôm nay tiếng dân nồng
Vang thôn xóm
Có tiếng hát xao xuyến ánh trăng vàng

Một viễn cảnh, một tương lai tươi sáng được mơ về. Chúng mình cùng hẹn ước nhé, ngày vui, ngày kháng chiến thành công. Sẽ bếp ấm lửa hồng. Sẽ trùng phùng đoàn tụ. Và, tiếng hát làm xao xuyến ánh trăng vàng hôm nao, hôm nay, vẫn sẽ làm xao xuyến.

Làm xao xuyến đôi tâm hồn chúng ta.

Ở khổ thứ sáu này, Phạm Duy thay “bài” thành “mừng”; thay “chiến thắng cháy bùng thôn làng reo mừng” thành “ấm áp bếp nhà ai hồng đêm trùng”; thay “mừng” thành “nồng”.

******

II.7. THAY BAO NỖI KHỔ TIẾNG ĐÀN MỪNG REO

Hò hô hò, hò hố hô
Về đây với lúa, với nàng
Thay bao nỗi khổ tiếng đàn (tôi) mừng reo
Nguồn vui đã tới với dân nghèo
Con sông nước chảy, tiếng chèo hò khoan
Hò hố, hò hô

Những khổ đau đã qua, ngày vui đã gần kề. Nhịp đi trong giai điệu cũng trở nên rộn ràng. Lúa, nàng, tiếng đàn tôi, tất cả đều đang hân hoan, reo mừng hạnh phúc. Sông, dường chảy nhanh hơn. Tiếng chèo, tiếng hò khoan, cũng vậy, hào hứng, như giục bước nhanh về.

Ở khổ thứ bảy này, Phạm Duy đã thay “đồng” thành “nàng”; thay “với cô gái Huế bên dòng sông Hương” thành “thay bao nỗi khổ tiếng đàn (tôi) mừng vui”.

******

II.8. TIẾNG CƯỜI TIẾNG CA TRÊN LÚA TRÊN SÔNG

Hà hớ hơ
Tiếng ai vừa hát qua làng
Lúc em gặt lúa trên đồng
Hát rằng
Hà há hơ
Tiếng cười, tiếng ca, trên lúa, trên sông.

Sau rất nhiều những thở than, u hoài, buồn bã, đớn đau, phẫn uất, sang đến khổ cuối cùng, Phạm Duy đã chuyển thành niềm vui, sự hào hứng, niềm hân hoan, rộn ràng và niềm hy vọng.

Giai điệu lúc này khoan thai, ung dung, tự tại.

Tự do, từ nay đã thuộc về. Hòa bình, từ nay đã hiện diện.

******

III. PHẠM DUY, NGƯỜI YÊU NƯỚC VIỆT NAM

Người ta so sánh, Phạm Duy là đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam. Tôi thấy so sánh như vậy là đúng.

Người ta tôn xưng, Phạm Duy là nhà nghiên cứu âm nhạc tài hoa. Tôi thấy tôn xưng như vậy cũng đúng luôn.

Người ta đánh giá, ông là người nhạc sĩ giàu có nhứt khi sở hữu khoảng trên dưới hai ngàn tác phẩm, mà trong đó, rất nhiều tác phẩm đã trở thành bất hủ. Tôi thấy đánh giá như vậy không sai.

Và tôi cho rằng, việc ví Phạm Duy là một thiên tài, thiết nghĩ, không có gì là quá đáng, thậm chí, có thể ngợi ca nhiều hơn thế, cũng vẫn đặng – những thiên tài, mà trăm năm, chỉ có một, hiếm hai.

Ông không chỉ là người làm nhạc, viết nhạc, viết lên, viết ra, những giai điệu êm đềm, du dương, trìu mến, gợi tình thương yêu, gợi niềm nhung nhớ, mà ông còn là người bảo tồn, duy trì, cũng như là làm mới cho tiếng Việt, cho ngôn ngữ Việt Nam.

Ông có công lao trong việc làm cho tiếng Việt trở nên hay hơn, đẹp hơn, bồi đắp cho tiếng Việt ngày càng thêm phong phú. Ông cũng có công lao, bằng tác phẩm của mình, bồi đắp thêm tình yêu giữa người với người, và giữa người với quê hương Việt Nam, Tổ Quốc Việt Nam.

Có tôn xưng ông như thế, hay nhiều hơn thế, cũng xứng đáng.

Xứng đáng với một người yêu nước – Phạm Duy!

******

IV. NHỚ VỀ CỐ HƯƠNG YÊU DẤU XA XƯA

Sau Quê Nghèo với những hiện thực đau thương của nông phu ở vùng ruộng đồng Quảng Bình, Phạm Duy sáng tác tiếp Bà Mẹ Gio Linh, và tác phẩm nhanh chóng trở thành một kiệt tác của bi kịch thời kháng chiến. Ca khúc cuối cùng của bộ ba này là Về Miền Trung, mang đầy âm hưởng dân ca, cùng những điệu hò vừa quen thuộc vừa lạ lẫm của xứ Huế. Huế, hôm qua còn là xứ mộng xứ mơ, hôm nay, khi chiến tranh liếm chiếc lưỡi hái bén ngót của mình qua, đã trở nên thê lương, tang tóc.

Hơn bảy mươi năm cống hiến đời mình cho âm nhạc, mà phần lớn trong số các sáng tác đó là dành cho quê hương, là tình yêu quê hương, thế nên, trong một bài viết của mình (theo tôi, bài viết này xứng đáng gọi là tiểu luận), bác sĩ Ngô Thế Vinh đã viết:

“Sự nghiệp âm nhạc lớn lao của Phạm Duy thấm đẫm Tình Quê Hương, đã in sâu vào tâm khảm nhiều thế hệ. Phạm Duy hiện diện như một tượng đài uy nghi trong nền âm nhạc cận đại của Việt Nam. Thế hệ này và cả những thế hệ sau sẽ vẫn hát một số những bài ca của Phạm Duy.

Một Phạm Duy đã sống qua hai thế kỷ, ông cưu mang tất cả sức nặng của tấn thảm kịch đất nước bốn ngàn năm thăng trầm – cả tấn bi kịch của một con người Việt Nam, vừa lớn lao và nhỏ nhoi, vừa đẹp đẽ và cả xấu xí.

Phạm Duy mất ở tuổi chín mươi hai, qua câu thơ của thi hào Nguyễn Du, thác là thể phách còn là tinh anh, tinh anh ấy là gia tài âm nhạc đồ sộ của Phạm Duy, để rồi qua đãi lọc của thời gian, của tam bách dư niên hậu, sẽ chỉ còn lại những giai điệu bất tử, thanh thoát bay bổng với thấm đẫm tình quê hương, mang theo cả một phần hồn của dân tộc.” (Tình Quê Hương Trong Nhạc Phạm Duy Và Những Chân Dung, 04.07.2022)

Lật trang đời nào của nhạc sĩ Phạm Duy, người đọc, người nghe, người hát, cũng luôn tìm thấy được, cũng luôn nhìn thấy được: lồng lộng trời quê hương, bao la tình đất nước, thiêng liêng hồn dân tộc, rất đỗi bi thương mà cũng rất đỗi kiêu hùng – Việt Nam – đất nước của bốn ngàn năm thăng trầm lịch sử.

Lật trang đời nào của Phạm Duy, chúng ta cũng luôn luôn tìm thấy được, cũng luôn luôn nhìn thấy được, lòng đau đáu và nỗi thiết tha nhớ về cố xứ, ngay cả khi, ông đã trở về lại, ông đã ở trên quê hương của chính mình:

NHỚ VỀ CỐ HƯƠNG YÊU DẤU XA XƯA!

Sài Gòn 17.07.2025
Phạm Hiền Mây (Nguồn Facebook)

Leave A Reply

Your email address will not be published.