Bắc Cực đang ấm lên nhanh gấp bốn lần so với bất kỳ khu vực nào khác trên hành tinh, làm tan băng nhanh, mở ra các tuyến đường biển mới và kéo dài thời gian lưu thông hàng hải. Viễn cảnh này được một số quốc gia xem là một cơ hội kinh tế lớn, nhưng lại có nguy cơ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng khí hậu.
Một tàu chở khí hóa lỏng (LNG) của Nga đã băng qua vùng biển Bắc Cực băng giá vào giữa mùa đông bốn năm trước, điều này cho thấy rõ ràng bản đồ các tuyến thương mại toàn cầu đang thay đổi.
Vào tháng 2 năm 2021, tập đoàn vận tải năng lượng Sovcomflotcủa Nga đã thông báo một trong những con tàu của họ, Christophe de Margerie (tên chủ tịch tổng giám đốc của tập đoàn Pháp Total), đã đi qua Bắc Băng Dương thành công, từ cảng Sabetta đến Mũi Dezhnev. Trong một thời gian dài, tuyến đường này chỉ có thể đi qua được từ tháng 7 đến cuối tháng 11 và hoàn toàn bị băng phong tỏa trong suốt thời gian còn lại của năm. Nhưng do hiện tượng nóng lên toàn cầu, lớp băng này đang mỏng đi ngày càng sớm hơn, mở ra con đường cho tàu chở dầu và tàu du lịch.
Bắc Cực là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Theo nhiều nghiên cứu khoa học, trong bốn mươi năm qua, Bắc Cực đã ấm lên nhanh hơn gần gấp bốn lần so với phần còn lại của thế giới, dẫn đến việc băng bị tan dần.
Viễn cảnh về một Bắc Băng Dương không còn băng và tàu bè có thể đi lại được phần lớn thời gian trong năm là điều hấp dẫn với một số quốc gia. Lý do chính đáng là những tuyến đường vận chuyển mới này sẽ tạo ra những lộ trình vận chuyển hàng hóa, năng lượng, thậm chí là hành khách nhanh hơn.
Tuyến đường biển phía Bắc, chạy dọc theo miền bắc nước Nga, nơi Christophe de Margerie đã đi qua, do đó sẽ trở thành một lối tắt giữa châu Âu và châu Á. Theo một nghiên cứu được Trường Đại học Hàng hải quốc gia (Pháp) công bố vào năm 2022, tuyến đường này sẽ “rút ngắn 30% quãng đường giữa các cảng của Trung Quốc và châu Âu”. Ví dụ, hành trình giữa Rotterdam và Thượng Hải, hai trong số những cảng lớn nhất thế giới, sẽ chỉ còn dài 7.000 hải lý (khoảng 13.000 km), thay vì hơn 11.000 hải lý ( 20.400 km) qua Kênh đào Suez theo tuyến đường thông thường.
Đồng thời, hai tuyến đường khác cũng có thể được phát triển: Hành lang Tây Bắc, qua Canada và tuyến đường xuyên cực.
Nhưng trước viễn cảnh này, các tổ chức phi chính phủ về môi trường đang gióng lên hồi chuông cảnh báo: Hoạt động giao thông hàng hải nhiều hơn trong khu vực sẽ làm tăng áp lực lên các hệ sinh thái, gây ra tác hại cho khí hậu và đa dạng sinh học, cũng như làm ô nhiễm gia tăng.
Vòng luẩn quẩn
Trên quy mô toàn cầu, vận tải biển chiếm 3% lượng khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính. Phần lớn tàu thuyền, đặc biệt là tàu container lớn vận chuyển hàng hóa, chạy bằng dầu nặng, gây ô nhiễm hơn bất kỳ loại nhiên liệu nào khác.
Khi bị đốt cháy, dầu nặng thải ra các hạt rất có hại cho sức khỏe và khí hậu, chẳng hạn như lưu huỳnh và “cacbon đen”. Theo Liên minh Khí hậu và Không khí Sạch (CCAC), thuộc Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP), loại khí thải này có khả năng làm nóng toàn cầu gấp 1.500 lần so với CO2.
Khi thoát ra ngoài khí quyển, “cacbon đen” sẽ lắng đọng dưới dạng một lớp bồ hóng. Và “với lớp phủ đen này, lớp băng trắng sẽ hấp thụ nhiều ánh sáng mặt trời hơn và do đó hấp thụ nhiều nhiệt hơn”, nhà khoa học Sammie Buzzard, một chuyên gia về vùng cực tại Trung tâm Quan sát và Mô hình hóa vùng cực thuộc Đại học Northumbria ở Vương quốc Anh, giải thích. Bà cho biết thêm “ngày nay, rất nhiều băng ở Bắc Cực bị bao phủ” như vậy, khiến băng tan nhanh hơn và phá vỡ hệ sinh thái.
Đó là một vòng luẩn quẩn: do hiện tượng nóng lên toàn cầu, băng đang tan chảy, mở ra những tuyến đường mới cho giao thông hàng hải. Từ đó, ngày càng có nhiều tàu thuyền đi lại, đốt nhiên liệu hóa thạch để cung cấp năng lượng cho tàu thuyền. Những nhiên liệu hóa thạch gây ra hiệu ứng nhà kính, thoát ra ngoài khí quyển, làm trầm trọng thêm tình trạng biến đổi khí hậu. Điều này càng đẩy nhanh quá trình tan chảy của băng… và cứ thế.
Quá trình này dường như đã diễn ra: với số lượng tàu thuyền ngày càng tăng ở Bắc Cực, việc sử dụng dầu nhiên liệu nặng trong khu vực chỉ trong bốn năm, từ 2015 đến 2019, đã tăng 75%.
Lưu thông hàng hải tăng mạnh
Bởi các công ty không đợi Bắc Cực tan băng hoàn toàn mới tăng cường sự hiện diện của họ trong khu vực. Hầu như tất cả các loại hình giao thông hàng hải đều đang gia tăng trong khu vực, cho dù là du lịch hay vận tải hàng hóa. Tàu đánh cá vẫn chiếm đa số, tiếp theo là tàu chở hàng lớn.
Những con tàu ngày càng đông đó cũng đang đi những quãng đường dài hơn, với mức tăng 111% trong vòng một thập kỷ. Băng tan, tàu thuyền có thể đi lại thường xuyên hơn. Từ năm 1979 đến năm 2018, thời gian đi lại an toàn trong khu vực này đã tăng 35%. Khoảng thời gian đi lại được tiếp tục mở rộng hàng năm.
Tổng cộng, tình trạng tan chảy hiện tại của khối băng do hiện tượng nóng lên toàn cầu đã cho phép lưu lượng hàng hải tăng 25% từ năm 2013 đến 2019, theo ước tính của Hội đồng Bắc Cực, tổ chức chính về hợp tác liên quốc gia trong khu vực.
Con số này dự kiến sẽ còn tăng thêm nữa. Các tàu thuyền hiện vẫn cần tàu phá băng để đi qua khu vực Bắc Cực, nhưng theo dự đoán, từ năm 2030, tàu bè đi lại trong những tháng hè có thể không cần đến sự hỗ trợ của tàu phá băng.
Trước sự bùng nổ của vận chuyển hàng hóa qua Bắc Cực như dự kiến, một số biện pháp đã được thực hiện trong những năm gần đây. Lệnh cấm sử dụng dầu nhiên liệu nặng trong khu vực đã được đưa ra vào tháng 7 năm ngoái, mặc dù một số tàu có thể tiếp tục sử dụng cho đến tháng 7 năm 2029.
Cơ quan của Liên Hiệp Quốc đặc trách quản lý vận tải biển, Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), cũng đã cam kết giảm lượng khí thải nhà kính trong lĩnh vực hàng hải ít nhất 20% trong năm năm tới.
Theo Clean Arctic Alliance, một nhóm gồm 21 tổ chức phi chính phủ bảo vệ động vật hoang dã và quần thể của Bắc Cực, những biện pháp này là không đủ. Hôm 14/05, tổ chức này tố cáo: “Trong những năm gần đây, lượng khí thải cac-bon đen từ vận tải hàng hải ở Bắc Cực đã tăng gấp đôi”.
“Bắc Cực vẫn là một hệ sinh thái rất mong manh, đang phải vật lộn để đối phó với những thay đổi do biến đổi khí hậu”, chuyên gia Sammie Buzzard nhấn mạnh. “Nhưng ngoài tác động đến khí hậu, thềm băng còn cung cấp môi trường sống cho các loài có nguy cơ tuyệt chủng, chẳng hạn như gấu Bắc Cực, loài sử dụng băng để săn mồi”.
Chưa kể đến ô nhiễm tiếng ồn gây hại cho các loài động vật có vú di chuyển trong vùng nước đóng băng này, chẳng hạn như cá voi, vốn sử dụng âm thanh để tìm thức ăn và tìm bạn duy trì nòi giống, tránh động vật ăn thịt và di cư. Thêm vào đó là “nguy cơ ô nhiễm gia tăng từ các vụ tràn dầu”, Sammie Buzzard nói thêm. Ông lưu ý:
“Hậu quả sẽ không chỉ dừng lại ở Bắc Cực. Với việc làm rối loạn môi trường này, sự cân bằng khí hậu của hành tinh sẽ bị đe dọa”. “Các vùng cực đóng vai trò chính trong việc làm mát toàn bộ hành tinh nhờ lớp băng trắng phản chiếu năng lượng của Mặt trời. Chúng hoạt động giống như một tủ đông khổng lồ.
Bất cứ điều gì làm giảm lượng băng hoặc làm tối màu băng đều dẫn đến sự hâm nóng thêm với hậu quả cho toàn bộ hành tinh. Do đó, phải thiết lập các quy định kỹ lưỡng để giảm thiểu tác động môi trường đối với khu vực này”.
Theo RFI