Vài đính chính liên quan đến Kinh Vĩnh Tế nhân kỷ niệm 200 năm hoàn tất công việc đào kinh
Nguyễn Văn Nghệ
Đại Nam thực lục chép: Giáp Thân, năm Minh Mạng thứ 5 [1824], mùa hạ, tháng 5, việc đào sông Vĩnh Tế xong. Vua nói rằng: “Đào con sông ấy để trọn công trước, thực là lợi ức muôn năm vô cùng về sau”. Bèn sai hữu ty dựng bia để ghi. Năm nay kỷ niệm 200 năm(1824-2024) công việc đào kinh Vĩnh Tế hoàn tất. Trong quá khứ có nhiều thông tin liên quan đến kinh Vĩnh Tế chưa chính xác cần đính chính để có cái nhìn đúng với thực tế lịch sử.
Tên Vĩnh Tế được đặt cho kinh (kênh) từ khi nào?
Theo như tác phẩm “ Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá miền Hậu giang” vào năm Giáp Thân [1824] sau khi đào sông Vĩnh Tế xong “ Nhà vua xem thấy bên bờ kinh mới đào có núi Sam y như bên bờ kinh trước kia có núi Sập, lại xét thấy Thoại Ngọc hầu phu nhân, dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, vốn là người đàn bà đức độ, từng tận lực giúp chồng trên đường công bộc, cho nên ban đặt tên kinh là Vĩnh Tế hà và tên núi ở bờ kinh là Vĩnh Tế sơn”(1). Gần đây trong tác phẩm “Nam Bộ vài nét Lịch sử- Văn hóa”, Tiến sĩ Sử học Trần Thuận cũng trích lại nguyên văn đoạn văn trên(2). Như vậy theo tác giả Nguyễn Văn Hầu và tác giả Trần Thuận thì tên kinh Vĩnh Tế được lấy tên Thoại Ngọc hầu phu nhân đặt tên cho con kinh sau khi công việc đào kinh Vĩnh Tế đã hoàn tất.
Hai tác giả trên đã “nghi ngờ” một đoạn dụ chép trong Quốc triều chánh biên toát yếu vào tháng 10 năm Minh Mạng thứ 3 [1822]: “Đường sông Vĩnh Tế liền với tân cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao Hoàng đế ta mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kinh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí Tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau”(3).
Cụm từ “đường sông Vĩnh Tế” trong bài dụ của vua Minh Mạng vào tháng 10 năm Minh Mạng thứ 3 được tác giả Nguyễn Văn Hầu chú thích: “Chữ Vĩnh Tế dùng ở đây không đúng, vì lúc bấy giờ kinh còn đang đào, chưa tứ danh Vĩnh Tế. Có lẽ sử thần sau này chép lại đã không chú ý đến thời gian tính trong lời nói của nhà vua”(4)
Năm 2006 Nhà xuất bản Trẻ cho in lại tác phẩm “ Thoại Ngọc hầu và Những cuộc khai phá miền Hậu giang” của tác giả Nguyễn Văn Hầu, ở phần “Văn liệu liên quan”, bài dịch nghĩa Bia Thoại Sơn có thêm chú thích đoạn văn “…trải nhiều năm giữ thành Châu Đốc, đào kinh Vĩnh Tế” như sau: “Một nghi vấn đáng chú ý: Bia Thoại Sơn lập năm 1822. Chính lúc này công tác đào kinh Châu Đốc- Hà Tiên còn đang thực hiện, mãi đến năm 1824 mới xong và bốn năm sau đó nữa(1828) mới được ban tên và bia Vĩnh Tế mới được lập. Tại sao tên chưa đặt, bia chưa dựng mà ở đây cũng như trong một lời dụ Minh Mạng( có chú thích trong chương Đào Vĩnh Tế hà), đã sớm biết và gọi đích danh như vậy”(5)
Theo tác giả Nguyễn Văn Hầu thì tên Vĩnh Tế được “tứ danh” khi kinh được đào xong, chứ trước đó chưa có tên Vĩnh Tế. Thông thường khi dự án đào một con kinh được nêu ra thì phải đặt cho con kinh sắp được đào một cái tên. Vậy xin đặt câu hỏi: Trong thời gian đang đào kinh Vĩnh Tế gọi là đào kinh gì?
Đại Nam thực lục ghi vào tháng 9 năm Kỷ Mão [1819] “Vét đào đường sông Châu Đốc thông đến Hà Tiên. Cho tên là sông Vĩnh Tế”(6). Đại Nam nhất thống chí ghi: “ Năm Kỷ Mão Gia Long thứ 18 [1819] đo thẳng từ hào sâu phía hữu đồn Châu Đốc về phía tây, qua Vàm Nao, Ca Âm đến Cây Kè thành 205 dặm rưỡi, cho tên là sông Vĩnh Tế”(7).
Có 3 chi tiết khẳng định là tên Vĩnh Tế được đặt cho con kinh khi bắt đầu công việc đào kinh:
1-Tác phẩm “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức dâng lên vua Minh Mạng vào tháng 5 năm Canh Thìn [1820], trước khi hoàn tất công việc đào xong kinh Vĩnh Tế khoảng 4 năm (8), ghi: “Vĩnh Tế hà tại Châu Đốc đồn chi tây. Gia Long thập bát niên, Kỷ Mão trực độ Châu Đốc đồn hữu hậu hào nhi tây, kinh Ca Âm náo khẩu chí Kỳ Thọ (tục danh Cây Kè), trường tứ vạn tứ thiên tứ bách thập nhị tầm, thành nhị bách ngũ lý bán. Mệnh danh Vĩnh Tế hà” (Sông Vĩnh Tế ở về phía tây đồn Châu Đốc. Năm Kỷ Mão [1819] niên hiệu Gia Long thứ 18, đo thẳng từ hào sau phía phải đồn Châu Đốc lên phía tây, qua láng bùn Ca Âm đến Kỳ Thọ (tục gọi là Cây Kè, dài 44.412 tầm thành ra 205 dặm rưỡi. Đặt tên là sông Vĩnh Tế)(9)
2-Tên Vĩnh Tế đã được đặt từ khi bắt đầu khởi công đào kinh cho nên mới có sự kiện là vào tháng 2 năm Canh Thìn[1820] “đặt trạm đường thủy ở sông Vĩnh Tế”(10)
3- Bia Thoại Sơn được khắc sau ngày Đông Chí năm Nhâm Ngọ [1822], tức là trước khi hoàn tất công việc đào kinh Vĩnh Tế khoảng 2 năm và bài văn bia này do chính Thoại Ngọc hầu “chế” (làm) và Thoại Ngọc hầu khẳng định là đã có tên Vĩnh Tế rồi: “…lịch niên trú tiết Châu Đốc thành, ta gian khai Vĩnh Tế hà” (…trải nhiều năm giữ thành Châu Đốc, đào kinh Vĩnh Tế). Đoạn văn này thuộc dòng thứ 14 trong bia Thoại Sơn tính từ phải sang và bắt đầu từ chữ thứ 14 tính từ trên xuống.
Trong bài “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký” cũng do chính Thoại Ngọc hầu “chế” không thấy chỗ nào nhắc đến việc lấy tên Thoại Ngọc hầu phu nhân đặt tên cho con kinh, chỉ thấy lấy tên Thoại Ngọc hầu phu nhân đặt tên cho núi mà thôi: “Chí thị hựu chẩn cập thần tâm, năng thừa Quan thơ chi hóa, dĩ tề kỳ gia, nhi thần thê Châu Thị danh Tế năng hóa Châu nam chi đức dĩ nội húc kỳ phu, mi cổ chi thầm hữu thiểu trợ yên. Toại dĩ nhơn danh tứ sơn danh, vi Vĩnh Tế sơn” (Đến nay hoàng ân lại xét đến lòng thần, cho là biết tề gia hợp hòa khí, lại hạ cố tới vợ thần là Châu Thị Tế, rằng có đức dày trong đường lễ giáo, bên trong biết giúp đỡ chồng, một lòng chân thành bền chặt, có chút công lao, nên xuống lịnh ban cho tên núi[ Sam] là núi Vĩnh Tế).
Xin khẳng định là tên Vĩnh Tế được đặt trước khi đào kinh. Ý nghĩa hai chữ Vĩnh Tế được lấy ý trong bài chiếu dụ dân trấn Vĩnh Thanh của vua Gia Long khi khởi sự đào kinh: “Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của Nhà nước mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi nay khó nhọc mà thực có lợi muôn đời. Vậy nên bảo nhau đừng sợ khó nhọc”(11) (chữ “Vĩnh” có nghĩa là lâu dài, mãi mãi, muôn đời; chữ “Tế” có nghĩa là cứu giúp. Vĩnh Tế có nghĩa là cứu giúp muôn đời).
Số lượng binh dân tham gia đào kinh Vĩnh Tế
Kinh Vĩnh Tế được khởi công vào ngày 15 tháng chạp năm Kỷ Mão. Các dịch giả sách Đại Nam thực lục cũng như một số tác giả đều chua năm dương lịch sau “Kỷ Mão” là [1819]. Nguyễn Văn Hầu ghi: “ kinh Châu Đốc-Hà Tiên được khởi đào từ ngày rằm tháng chạp năm Kỷ Mão(1819)”(12). Sách Lịch sử Việt Nam tập 5 ghi:“Công trình bắt đầu khởi công từ tháng 12 năm Kỷ Mão(1819)”(13).
Kinh Vĩnh Tế được khởi công vào ngày 15 tháng chạp năm Kỷ Mão tương ứng với dương lịch là Chủ nhật 30.01.1820 chứ không còn ở năm 1819 nữa (xem Lê Quý Ngưu, Lịch&Lịch Vạn niên âm dương lịch đối chiếu, Nxb Văn hóa Dân tộc, tr.175). Do dựa vào Quốc triều chính biên toát yếu ghi là kinh Vĩnh Tế được đào vào tháng 9 năm Kỷ Mão [1819] nên tác giả Nguyễn Thiệu Lâu ghi: “Vậy công việc bắt đầu vào cuối thu sang đông năm Kỷ Mão(1819)” (14). Công trình đào kinh Vĩnh Tế tuy nói là kéo dài trong khoảng 4 năm rưỡi (khởi công 15 tháng chạp năm Kỷ Mão [30.01.1820] và hoàn tất vào tháng 5 năm Giáp Thân [1824], nhưng mỗi đợt chỉ thi công từ 3-4 tháng vào mùa khô mà thôi (mùa khô ở Đồng bằng sông Cửu Long kéo dài từ tháng chạp âm lịch cho đến tháng 5 âm lịch của năm sau. Nếu nói như Nguyễn Thiệu Lâu thì thời điểm cuối thu sang đông là mùa “nước nổi” thì làm sao thi công!). Nếu gộp lại thời gian thi công trong 3 đợt chỉ khoảng 10 tháng rưỡi mà thôi.
Trong khoảng 4 năm rưỡi ấy chỉ có 3 đợt thi công:
Đợt 1 : Từ 15 tháng chạp năm Kỷ Mão [30.01.1820] cho đến tháng 3 năm Canh Thìn [1820]. Số lượng: 5000 binh dân người Kinh, 500 binh thuộc đồn Uy Viễn, 5.000 dân phu người Cao Miên. Binh dân người Kinh cũng như binh đồn Uy Viễn mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền và 1 phương gạo; dân Cao Miên mỗi tháng cấp cho mỗi người 4 quan 5 tiền và 1 phương gạo (15).
Sách Lịch sử Việt Nam tập 5 từ năm 1802 đến năm 1858 dẫn lại tác phẩm Gia Định thành thông chí về số binh dân tham gia công tác đào kinh Vĩnh Tế trong đợt 1: “ sai Trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thuỵ, Vệ úy Chưởng cơ Hữu bảo Hữu quân là Tuyên Quang hầu Phan Văn Tuyên, đốc sức dân phu trấn Vĩnh Thanh mỗi phiên 5.000 người, với quân lưu thú ở đồn Uy Viễn 5.000 người. Chiêu Chùy nước Cao Mên là Tôn A La Toàn Phù đem quân dân mỗi phiên 5.000 người, lấy ngày 15 tháng 12 khởi công”(16). Thật là tội nghiệp cho cụ Trịnh Hoài Đức. Cụ nào viết như vậy! Nguyên văn đoạn ấy trong Gia Định thành thông chí xin được phiên âm : “Khâm ban Vĩnh Thanh trấn, Trấn thủ Thống chế Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại, Hữu quân Hữu bảo vệ, Vệ úy Chưởng cơ Tuyên Quang hầu Phan Văn Tuyên, đổng đốc Vĩnh Thanh trấn dân phu, mỗi phiên ngũ thiên nhân, Uy Viễn đồn lưu thú quân ngũ bách, Cao Miên quốc Chiêu Trùy Tôn La A Toàn Phù, dịch quân dân mỗi phiên ngũ thiên. Dĩ thập nhị nguyệt thập ngũ nhật khởi công”(17). Như vậy “Uy Viễn đồn lưu thú quân ngũ bách”(lính thú đồn Uy Viễn 500 người). Chỉ có 500 người chứ không phải 5.000 người!
Tác giả Nguyễn Văn Hầu viết: “Ngay trong đợt đầu, đã có đến 5.000 nhân công, bắt trong thường dân và binh lính Việt Nam, đó là chưa kể 500 người khác, đang phục vụ trong quân đội thuộc đồn Uy Viễn. Riêng phần Điều bát Nguyễn Văn Tồn đã bắt đến 5.000 dân xâu khác nữa, thuộc người Cao Miên, cũng trong thường dân và binh lính”(18). Không biết tác giả Nguyễn Văn Hầu dựa vào tư liệu nào mà dám khẳng định là “Riêng phần Điều bát Nguyễn Văn Tồn đã bắt đến 5.000 dân phu khác nữa, thuộc người Cao Miên, cũng trong thường dân và binh lính”? Số 5.000 người Cao Miên là do Chiêu Chùy nước Cao Miên là Đồng Phù (có sách viết là Toàn Phù) quản suất. Riêng Điều bát Nguyễn Văn Tồn chỉ quản suất 500 lính thú đồn Uy Viễn mà thôi!(19)
Đợt 2 : Theo Nguyễn Văn Hầu, binh dân đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, Định Tường hơn 39.000 người, binh dân Cao Miên hơn 16.000 người, chia làm 3 phiên để hoạt động (20). Theo tác giả Nguyễn Thiệu Lâu, đợt này : “đã có tới 55.000 nhân công, vừa người Việt ta, vừa người Miên, làm việc suốt 3, 4 tháng dưới sự lãnh đạo tại chỗ của Gia Định thành Tổng trấn Lê Văn Duyệt”(21).
Đợt 3: Bắt đầu từ tháng 2 năm Giáp Thân [1824] đến tháng 5 năm Giáp Thân[1824]. Cũng theo Nguyễn Văn Hầu là “binh dân bị bắt làm xâu lên tới 25.000 người vừa Miên và Việt”(22).
Với 3 đợt thi công như vậy, tác giả Nguyễn Văn Hầu đã tổng kết: “Như vậy, nhân công đào kinh tổng số lên đến trên 80 ngàn người. Thời gian công tác dai dẳng 5 năm trường, từ tháng chạp năm Mẹo (1819) cho tới tháng 5 năm Thân (1824) mới hoàn tất”(23). Theo các con số trong 3 đợt thi công do Nguyễn Văn Hầu đưa ra thì số binh dân tham gia đào kinh lên tới 90.500 người.
Sách Lịch sử Việt Nam tập 5 tổng kết công việc đào kinh Vĩnh Tế: “ Như vậy công trình đào sông Vĩnh Tế kéo dài trong khoảng 5 năm(1819-1824) huy động khoảng hơn 50 vạn binh dân người Kinh và người Chân Lạp cùng tham gia”(24). Không biết tác giả dựa vào đâu mà đưa ra con số “50 vạn binh dân”(500.000 binh dân) như vậy?
Số binh dân tham gia đào kinh là hơn 80.000 người hoặc 90.500 người?
Số binh dân tham gia đợt 1 tổng cộng là 10.500 người; Đợt 2 không phải số lượng 55.000 người mà phải ít hơn. Tháng 10 năm Nhâm Ngọ [1822] vua Minh Mạng sai Lê Văn Duyệt làm quy hoạch trước: “Duyệt tâu xin phát hơn 39.000 người binh dân ở thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường cùng đồn Uy Viễn với hơn 16.000 người binh dân nước Chân Lạp, chia làm 3 phiên, để mùa xuân sang năm khởi công”(25). Con số 55.000 người là con số “quy hoạch”, nói như ngôn ngữ hiện nay là “lên kế hoạch dự trù”. Mãi đến tháng 2 năm Quí Mùi [1823] vua Minh Mạng mới ra lệnh đào kinh Vĩnh Tế và Tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt “tâu xin lượng phát hơn 35.000 binh dân ở thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, đồn Uy Viễn cùng hơn 10.000 binh dân nước Chân Lạp ra làm”(26). Như vậy đợt 2 huy động là 45.000 người chứ không phải 55.000 người. Thời gian thi công đợt 2 kéo dài đến tháng 4 năm Quí Mùi [1823] thì hoãn lại; Đợt 3 đào tiếp sông Vĩnh Tế vào tháng 2 năm Giáp Thân [1824] “ Lấy binh dân các trấn thuộc thành và nước Chân Lạp hơn 24.700 người làm việc”(27). Đến tháng 5 năm Giáp Thân [1824] “việc đào sông Vĩnh Tế xong” (28).
Tổng cộng 3 đợt đào kinh Vĩnh Tế huy động hơn 80.200 binh dân người Kinh và người Chân Lạp (10.500+ 45.000+ >24.700= >80.200). Nói theo ngôn ngữ xưa là hơn 8 vạn binh dân tham gia 3 đợt đào kinh Vĩnh Tế chứ không phải “50 vạn binh dân” như trong sách Lịch sử Việt Nam tập 5 đã viết.
Khi nghiên cứu về kênh Vĩnh Tế, tác giả Nguyễn Văn Hầu dựa vào tác phẩm Quốc triều chính biên toát yếu, mà đã “toát yếu” thì làm sao ghi chép đầy đủ các sự kiện cho nên không sao tránh khỏi sự thiếu sót. Ngày nay nhiều bộ sách do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn đã được phiên dịch cho nên thế hệ đi sau cần bổ túc những sai sót của thế hệ trước để những ai tham khảo về lịch sử kinh Vĩnh Tế, hiểu một cách chính xác.
—-
Chú thích:
1- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Hương Sen, tr 199
2- Trần Thuận, Nam Bộ vài nét lịch sử- văn hóa, Nxb Văn hóa- Văn nghệ, TPHCM-2014, tr 187-188
3- Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế-1998, tr 160
4- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và… Sđd, tr 193
5- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và Những cuộc khai phá miền Hậu giang, Nxb Trẻ, 2006, tr. 309
6- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 1, Nxb Giáo dục, tr 997.
7- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr 177
8- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 2, Nxb Giáo dục, tr 63.
9- Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch và chú giải), Nxb Tổng hợp Đồng Nai. Phần chữ Hán không có phiên âm, trang 146; phần dịch nghĩa, trang 83.
10- Đại Nam thực lục tập 2 , Sđd, tr 44
11- Đại Nam thực lục tập 1, Sđd, tr 997
12- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và những…Sđd, tr 188.
13- Trương Thị Yến (Chủ biên), Lịch sử Việt Nam tập 5 Từ năm 1802 đến năm 1858, Nxb Khoa học- Xã hội, Hà Nội-2013, tr 266 (Sách Nhà nước đặt hàng).
14- Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, tr. 324 (Tác phẩm Quốc sử tạp lục tôi đang dùng mất những trang đầu và trang chót nên không rõ nhà xuất bản. Nhưng có lẽ xuất bản từ năm 1967 về sau. Bởi vì có bài giới thiệu của Lê Văn Siêu ghi : “ Sài Gòn – 1967”)
15- Đại Nam thực lục tập 1, Sđd, tr 997.
16- Trương Thị Yến (Chủ biên), Lịch sử Việt Nam tập 5…, Sđd, tr 267.
17- Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd. Phần chữ Hán không có phiên âm trang 147; phần dịch nghĩa trang 83.
18- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và những… Sđd tr 191.
19- Đại Nam thực lục tập 1, Sđd, tr 997.
– Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd. Phần chữ Hán không có phiên âm, trang 147; phần dịch nghĩa, trang 83.
20- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và những…Sđd, tr 193.
21- Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục ,tr. 325.
22- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và những… Sđd, tr 194
23- Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc hầu và những… Sđd, tr 194.
24- Trương Thị Yến(Chủ biên) , Lịch sử Việt Nam tập 5… Sđd, tr 269.
25– Đại Nam thực lục tập 2, Sđd, tr 239.
26– Đại Nam thực lục tập 2, Sđd, trg 260.
27- Đại Nam thực lục tập 2, Sđd, tr 331.
28- Đại Nam thực lục tập 2, Sđd, tr. 351.
Nguồn: NGHIENCUULICHSU