Tượng Đức Phật thiền định được vua rắn Mucilinda (còn gọi là Muchalinda hay Mucalinda; âm Hán Việt: Mục Chân Lân Đà) vươn những chiếc đầu che phủ từ phía sau lưng trước kia vốn không có trong mỹ thuật Phật giáo Đại thừa truyền thống ở Việt Nam mà chỉ thấy trong mỹ thuật Phật giáo Nam truyền Khmer ở Nam bộ.
Đến thập niên 30 của thế kỷ XX, các hình tượng Phật-Rắn Mucilinda của dòng gốm mỹ nghệ Biên Hòa với kích cỡ nhỏ đã đến với công chúng và cùng với sự phát triển của Phật giáo Nam truyền trong cộng đồng người Việt, tượng Phật-Rắn càng lúc trở nên phổ biến và đến nay đã xuất hiện ở nhiều tu viện và chùa Phật giáo Nam truyền và chùa Phật giáo Bắc truyền.
Học giả Hermann Oldenberg đã viết về giây phút giác ngộ của Đức Phật và sự che chở của vua Rắn Mucilinda: “Ngồi dưới gốc cây, từ ấy về sau được gọi là cây Tri thức (cây Bồ đề – Bodhi tree), ngài trải qua nhiều trạng thái ý thức cho đến khi đạt được sự giác ngộ trọn vẹn. Bằng một trực cảm sâu sắc, ngài đã nhận biết được những cuộc phiêu bạt của những linh hồn trong sự chuyển kiếp, tìm tới cội nguồn của khổ đau ở thế gian này và tìm được con đường diệt khổ.
Kinh văn đã chép lại lời của ngài khi ấy: “Khi tôi thấu hiểu được điều ấy, tâm hồn tôi đã thoát khỏi sự ràng buộc của dục vọng, thoát khỏi sự ràng buộc của kiếp sống ở trần gian, thoát khỏi sự mê lầm và vô minh. Tri thức về giải thoát phát sinh từ sự giải thoát: sẽ không còn tái sinh, sẽ không còn chuyến du hành thiêng liêng và tôi biết là mình sẽ không còn trở lại thế gian này”.
Những người theo đạo Phật đã coi giây phút này như bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời của thái tử Tất Đạt Đa, trong cuộc đời của các thần linh và của loài người: vị tu sĩ khổ hạnh Gotama đã thành Phật, thành người đã tỉnh thức, thành đấng Giác ngộ. Đêm Đức Phật đã trải qua dưới gốc cây bồ đề, bên bờ sông Neranjarâ, được coi là đêm thiêng liêng của những người theo đạo Phật…
Ngài nấn ná suốt 7 ngày gần cây Bồ đề, “tận hưởng niềm vui của sự giải thoát”. Cuộc gặp gỡ với một người Bà la môn kiêu căng làm cho chúng ta liên tưởng tới một cuộc đấu tranh để thu phục Bà la môn giáo. Ông ta hỏi ngài: “Hỡi Cồ Đàm, bản chất của Brahman là ở đâu và những phẩm chất gì làm nên một người Bà la môn?” Đức Phật đáp: “Một người Bà la môn thật sự là người đã lánh xa mọi điều ác, không còn dục vọng, không còn biết đến sự ô uế nữa, đã hoàn toàn làm chủ bản thân”. Sự tấn công của con người chẳng những không ảnh hưởng tới ngài, mà cả những thiên tai cũng không làm suy suyển sự bình an ngài đã có được. Bão giông nổi lên, mưa rơi tầm tã suốt 7 ngày, chảy thành thác lũ, bóng tối lạnh lẽo phủ trùm mọi vật quanh ngài. Vua Rắn Mucalinda rời chỗ ẩn nấp, cuộn mình 7 vòng để che cho ngài tránh mưa sa bão táp. “Và sau 7 ngày, khi thấy trời quang mây tạnh, Vua Rắn Mucalinda không cuộn mình nữa, vứt bỏ lớp rắn để mang hình hài một chàng trai trẻ đến trước mặt đấng Toàn giác, chắp tay lạy ngài.
Khi nhìn thấy chàng, Đức Phật đã nói:
“Phước hạnh thay là sự cô đơn của người đã có được an lạc, đã nhận biết và thủ đắc chân lý;
Phước hạnh thay là người đứng vững, không bị lay chuyển, luôn tự tra vấn chính mình.
Phước hạnh thay là người không còn phiền muộn và ham muốn
Việc chinh phục sự thiển cận của bản ngã là niềm hạnh phúc đích thực” (phẩm Mucilinda, kinh Tiểu bộ)
(Đức Phật, cuộc đời, học thuyết và tăng đoàn, tr. 107)
HUỲNH DUY LỘC (Mừng Xuân Ất Tỵ)
Ảnh: Tượng Phật và rắn Mucilinda