H. W. Schumann đã viết về ngày đản sinh của Đức Phật trong “Historical Buddha: The Times, Life and Teachings of the Founder of Buddhism”:
“Kapilavatthu, quê hương Đức Phật, nơi ngài sống 29 năm đầu tiên trong đời, ở sát biên giới ngày nay ngăn chia nước Nepal và Cộng hòa Ấn Ðộ. Phụ vương Đức Phật là Suddhodana (Tịnh Phạn) thuộc bộ tộc Sakiya. Bộ tộc Sakiya gồm toàn các vị Sát-đế-lỵ (Kshatriya) vào thời ấy là thành phần cao sang, giai cấp chiến binh hay quý tộc lãnh trách nhiệm cai trị và xử án tại Cộng hòa Sakiya. Từ các chức vụ này, vị tân vương thống trị nước Cộng hòa và đại diện toàn dân được bầu lên khi có nhu cầu. Vào khoảng giữa thế kỷ 6 trước CN, vua Tịnh Phạn (Tịnh Phạn có nghĩa là “Gạo sạch” – “He who grows pure rice”) giữ ngôi vị quốc trưởng.
Vua Tịnh Phạn kết hôn với hai chị em ruột từ xứ Devadaha, bà chánh hậu Màyà (Ma-gia) sau này thành mẫu thân Thái tử Siddhattha. Thứ phi của ngài là Pajàpati (hay Mahàpajàpati: Ma-ha ba-xà-ba-đề) sinh hai con: hoàng nam là vương tử Nanda, chỉ sinh sau Thái tử Siddhattha, anh khác mẹ, vài ngày, và công chúa Nandà hay Sundarìnandà. Cả hai bà Màyà và Pajàpati đều thuộc bộ tộc Sakiya.
Tộc tánh của vua Tịnh Phạn là Gotama nên ngài không được phép kết hôn với một phụ nữ cùng họ. Hẳn ngài đã tuân theo tục lệ ấy và đã kết hôn với nhiều người ngoại tộc nhưng việc này không có gì chắc chắn vì tộc tánh Devadahasakka hoặc Anjana đều không được ghi trong sử sách. Tuy nhiên ta chỉ nhìn vào bản gia phả là thấy rõ mối liên hệ huyết thống mật thiết giữa vua Tịnh Phạn và hai hoàng hậu chị em này: mẫu thân của vua Tịnh Phạn và phụ thân của hai hoàng hậu là anh em ruột, và phụ thân ngài cùng mẫu thân hai bà cũng vậy. Nói cách khác, hai hoàng hậu là hai em họ vua Tịnh Phạn.
Kapilavatthu là kinh thành quê hương của Thái tử Siddhattha (Siddhattha có nghĩa là “Người đã đạt được mục đích của mình” – “He who has attained his goal”), nhưng không phải là nơi ngài ra đời. Như trong Nidànakatthà (Duyên Khởi Luận), phần giới thiệu truyện Tiền Thân hay Bổn Sanh (Jàtakas) kể câu chuyện thần thoại về hoàng hậu Màyà đã 40 tuổi, ngay trước thời kỳ sinh nở đã lên đường trở về quê song thân ở Devadaha để sinh con và nhờ mẫu thân Yasodharà bảo dưỡng. Cuộc hành trình bằng xe ngựa hay xe bò cọc cạch lắc lư trên những con đường đất bụi nóng bức khiến cho việc lâm sản xảy ra sớm trước khi về đến Devadaha. Gần làng Lumbini (Lâm-tỳ-ni, nay là Rumindai) giữa trời không có nhà cửa, chỉ có tàng cây sàla (tên khoa học Shorea Robusta) và cũng không có thầy thuốc nào lo việc hộ sản, Thái tử Siddhattha sinh ra đời khoảng tháng 5 năm 563 trước CN.
Lumbini được các nhà khảo cổ khai quật năm 1896. Di chỉ quan trọng nhất được tìm thấy nơi ấy là một thạch trụ cao 6,5 m do Hoàng đế Asoka (A-dục) dựng năm 245 trước CN với lời ghi:
“25 năm sau khi lên ngôi, quốc vương Devànampiya Piyadasi (Thiên Ái Thiện Kiến, tức A-dục) ngự đến đây chiêm bái vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc hiền nhân (muni) của bộ tộc Thích Ca, đã đản sinh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc một tượng bằng đá và dựng một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất ở làng Lumbini và giảm thuế hoa lợi từ 1/4 theo lệ thường xuống 1/8”.
Hơn nữa, một phiến đá có lẽ xuất hiện vào khoảng thế kỷ 2 được tìm thấy ở Lumbini và được lưu trữ tại một ngôi chùa nhỏ ở địa phương. Phiến đá cho thấy hoàng hậu Màyà sinh hoàng tử trong lúc đang đứng vịn cành cây sàla. Hình như sinh con lúc đứng là một phong tục thời ấy.
Sau những cơn đau đớn, hoàng hậu Màyà không thể tiếp tục cuộc hành trình đến Devadaha nên đoàn tuỳ tùng ít ỏi của bà đưa bà trở về Kapilavatthu, cả người mệt lã. Niềm hân hoan vì vị thái tử ấu nhi của hoàng gia Gotama ra đời chẳng bao lâu lại bị lu mờ vì nỗi lo âu trước sức khỏe suy nhược dần của hoàng hậu. Bà phải nằm trên giường nhìn mọi việc chuẩn bị cho ngày lễ đặt tên thái tử.
Một vị hiền triết được triệu vào cung để tiên đoán vận mệnh của thái tử: đó là Asita (A-tư-đà), một thân hữu rất được hoàng tộc Gotama quý trọng. Tên ông có nghĩa là “Bất Bạch” vừa chỉ làn da của ông, vừa nói lên nguồn gốc sinh trưởng từ dân cư ngụ ở Ấn Ðộ trước thời kỳ có chủng tộc Aryan. Vị hiền nhân Asita vốn là tế sư của hoàng tộc Gotama suốt bao năm qua. Trước tiên là dưới thời tiên vương Sìhahanu, phụ thân của vua Suddhodana, sau đó đến chính thời vua Suddhodana trước khi lui về ẩn dật. Ông xem xét hài nhi mới ra đời 3 ngày và tiên đoán căn cứ vào một số thân tướng rằng đây quả là một vương tử phi thường sẽ trở thành một vị Phật và sẽ chuyển Pháp Luân. Ông ứa nước mắt, nói rằng mình sẽ không sống lâu để nhìn thấy Thái tử Siddhattha thành Phật và căn dặn cháu trai mình là Nàlaka về sau phải làm đệ tử của Đức Phật.
Hai hôm sau, 8 vị Bà-la-môn cử hành lễ đặt tên cho Thái tử Siddhattha. Họ cũng tiên đoán nhiều việc trọng đại trong đời thái tử: hoặc sẽ thành bậc giác ngộ trên đường đạo giáo, hoặc làm một đại vương trong đời thế tục đầy vinh quang, danh vọng. Vị trẻ nhất trong các vị Bà-la-môn này là Kondañña (Kiều-trần-như), người mà chúng ta sẽ gặp lại 30 năm sau, khi Đức Phật giảng kinh Chuyển Pháp luân.
Còn đối với hoàng hậu Màyà, lễ đặt tên thái tử hài nhi là lúc kết thúc của đời bà. 7 ngày sau khi sinh con, bà lặng lẽ qua đời. Tuy nhiên thái tử ấu nhi Siddhattha không lớn lên trong cảnh thiếu mẹ. Bà Pajàpati, thứ phi của vua Suddhodana, là kế mẫu thương yêu, chăm sóc thái tử trong lúc chính bà cũng vừa sinh hoàng tử Nanda, em khác mẹ của Thái tử Siddhattha. Chuyện còn kể rằng bà giao con mình cho một nhũ mẫu và chính bà dành hết thì giờ tận tụy chăm sóc hài nhi của cố hoàng hậu, chị ruột bà…”
HUỲNH DUY LỘC dịch