Eric T. Jennings và Đỉnh cao đế quốc: Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp

Huỳnh Duy Lộc

0 1,280

Giới thiệu Eric T. Jennings và “Imperial heights: Dalat and the making and undoing of French Indochina” (Đỉnh cao đế quốc: Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp

Eric Thomas Jennings sinh ngày 26 tháng 7 năm 1970 tại Mỹ, hiện là giáo sư sử học ở Đại học Toronto của Canada, là một chuyên gia về các thuộc địa của Pháp. Mẹ anh là người Pháp đã sinh ra anh ở Mỹ. Anh thông thạo cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp và có nhiều năm học ở Paris. Anh yêu thích môn lịch sử từ nhỏ. Cha anh cũng là một sử gia. Ngày đi học, anh toàn bị điểm kém các môn Toán và Lý, nhưng điểm môn Sử luôn cao. Thời trung học, các thầy dạy sử luôn khích lệ Jennings theo đuổi niềm say mê của mình và khi học đại học, anh chọn con đường chuyên về lịch sử thực dân Pháp là do mê đọc những cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh là một số thuộc địa của Pháp ở vùng biển Caribê. Anh quyết định làm luận án tiến sĩ ở Đại học Berkeley về đề tài “Thế chiến thứ hai ở 3 thuộc địa của Pháp: Guadeloupe, Madagascar và Đông Dương”.

Từ luận án tiến sĩ này, Jennings viết lại thành một cuốn sách có nhan đề “Vichy in the Tropics” (Chính phủ Vichy ở vùng nhiệt đới) được xuất bản năm 2001. Đến nay, Jennings đã viết 5 cuốn sách về nhiều khía cạnh của lịch sử thực dân Pháp, tất cả đều được giới sử học quốc tế đánh giá cao và được dịch sang tiếng Pháp.
Các tác phẩm của Eric T. Jennings đã dịch sang tiếng Pháp:

• L’Empire colonial sous Vichy, Jacques Cantier et Éric Jennings , 2004
• Vichy sous les tropiques. La Révolution nationale à Madagascar, en Guadeloupe, en Indochine, 1940-1944 , (Vichy in the tropics : Pétain’s national revolution in Madagascar”, Guadeloupe, and Indochina, 1940-1944), 2004
• À la cure, les coloniaux ! Thermalisme, climatisme et colonisation française, 1830-1962 (Curing the colonizers : hydrotherapy, climatology, and French colonial spas), 2011
• La Ville de l’éternel printemps. Comment Dalat a permis l’Indochine française, (Imperial heights : Dalat and the making and undoing of French Indochina), 2013
• La France libre fut africaine, 2014
• Illusions d’empires, 2016 .

Eric T. Jennings bắt đầu chú ý đến Đà Lạt ngay từ khi nghiên cứu để làm luận án tiến sĩ. Lúc đó, anh thấy nhiều bức điện tín từ Pháp gửi cho Toàn quyền Đông Dương, nhưng lại gửi tới Đà Lạt. Anh nghĩ: “Lạ quá! Tại sao toàn quyền này không ở Hà Nội chứ?”. Dần dần, anh bắt đầu hiểu ra tầm quan trọng của Đà Lạt đối với Đông Dương.

“Imperial heights: Dalat and the making and undoing of French Indochina” (Đỉnh cao đế quốc – Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp) thể hiện sự hình thành Đà Lạt thời Pháp thuộc dưới các góc độ chính trị, kinh tế, quân sự, quy hoạch, giáo dục, tôn giáo và du lịch. Cuốn sách này là tác phẩm thứ 4 của Eric T. Jennings được nhà xuất bản Payot ở Paris ấn hành vào tháng 10 năm 2013. Độc giả nhận thấy khi bác sĩ Alexandre Yersin – người được vinh danh là “cha đẻ của Đà Lạt” – cho rằng khí hậu Đà Lạt tốt cho sức khỏe thì ông có phần nào đã sai lầm. Cũng vì sai lầm này mà người Pháp đã xây dựng Đà Lạt như một trung tâm an dưỡng cho người Pháp đang điên đảo vì những căn bệnh nhiệt đới. Trong lúc quân đội Pháp ở miền Nam Việt Nam khổ sở vì bệnh sốt rét thì Đà Lạt thời kỳ 1924-1925 cũng có sốt rét. Quanh khách sạn Palace, “muỗi bay cả đàn quấy nhiễu du khách”. Ủy ban Vệ sinh của thành phố buộc phải cho khai thông những vùng nước tù hãm, cách ly dân bản xứ và tìm cách ém nhẹm thông tin. Chi tiết này căn cứ theo những thông tư của chính quyền và những biên bản cuộc họp Hội đồng thành phố thời đó.

Eric T. Jennings không nhớ hết số lần anh tìm đến các trung tâm lưu trữ của Việt Nam ở Hà Nội, Sài gòn và Đà Lạt, rồi cả Pháp, Thụy Sĩ, Canada và Mỹ . “Tôi cứ lần theo những manh mối mà các tài liệu hé mở và việc truy tìm đã đưa tôi theo nhiều hướng bất ngờ”, anh kể. Để hoàn thành cuốn sử về Đà Lạt, anh phải mất 10 năm. Mọi thông tin trong sách đều được anh dẫn nguồn rất cẩn trọng, và anh đã tốn rất nhiều công sức để tiếp cận các nguồn tài liệu nằm rải rác ở 5 quốc gia. Anh bắt tay vào việc thực hiện cuốn sách với các nguồn tư liệu tìm thấy ở Pháp. Các hồ sơ thuộc địa đều nằm ở trung tâm Aix-en-Provence, gần Marseille. Đây là một chi nhánh của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Pháp. “Các tập danh mục ở chi nhánh này rất xuất sắc và tôi nhanh chóng quen thuộc với mọi bộ tư liệu khác nhau tại đây”, anh kể. Tuy nhiên, trung tâm này lại không có nhiều văn bản từ miền Trung Việt Nam. Muốn tìm hiểu, anh phải đến Hà Nội rồi đến Sài gòn.

Anh có 3 lần đến Việt Nam. Ở Việt Nam, các tư liệu có liên quan nhiều khi không tập trung ở một trung tâm mà rải khắp 3, 4 nơi. Nhiều tài liệu lại ở Pháp. Có khi cùng một loạt hồ sơ nhưng lại phân tán ở Phnom Penh (Cambodia), Sài gòn, Hà Nội và Aix-en-Provence. Tại Thụy Sĩ, anh tiếp cận các tài liệu lưu trữ ở Zurich, được lấy từ hồ sơ của Congrès International d’Architecture Moderne (Đại hội Kiến trúc sư hiện đại quốc tế). Đồ án quy hoạch Đà Lạt đã được trình bày ở tổ chức uy tín này như một thành phố kiểu mẫu.

Còn ở ngoại ô Paris, trong các tàng thư của quân đội Pháp tại Vincennes, anh tìm được những hồ sơ quan trọng về bạo lực thực dân, nguồn tài liệu đó trở thành tiêu điểm của chương hai của cuốn sách. Ngay tại Paris, anh may mắn đọc được các hồ sơ của Fernand Bernard, người đã phản đối kế hoạch xây dựng Đà Lạt vào cuối thế kỷ 19. Ông ta cho rằng xây dựng Đà Lạt chỉ phí tiền và nơi này không có lợi cho sức khoẻ như nhiều người lầm tưởng. Ở một trung tâm khác của Paris, anh tìm ra các hồ sơ của trường nữ sinh Couvent des Oiseaux. Các tàng thư ở Canada là tài liệu của những nhà truyền giáo đã đến Đà Lạt thời kỳ đầu. Còn ở Đại học Cornell của Mỹ, anh tham khảo được nhiều tạp chí và nhật báo xuất bản ở Đà Lạt vào những năm 1930.

Bản pdf “Imperial heights: Dalat and the making and undoing of French Indochina”: https://drive.google.com/…/1LoEN_Ro4zdHrOJ…/view…

Eric T. Jennings đã ghi chép về những chuyến thám hiểm của bác sĩ Yersin và việc khám phá cao nguyên Lang Bian:

“Những chuyến thám hiểm của Yersin

Vào tháng 7 năm 1897 Toàn quyền Paul Doumer đã chỉ thị các thuộc cấp thu thập thông tin về những địa điểm khả dĩ cho một “viện điều dưỡng miền núi, nơi những viên chức cũng như dân định cư có thể lấy lại sức lực, trong khi hiện nay họ buộc phải quay về Pháp với cái giá nặng nề phải trả đối với ngân sách của chúng ta và công việc của họ”. Doumer đã biết tiếng tăm ác hiểm của vùng cao nguyên Đông Dương, nhưng ông đã quy nó cho “tình trạng hoang phế do những người bản xứ đã bỏ mặc”. Đồng tình với Kermorgant, Doumer chủ trương “khai quang sơ bộ” địa điểm được chọn, “để chúng ta có thể tìm thấy trên những núi non của xứ sở này luồng sinh khí thường thấy ở những vùng cao khắp thế giới”. Hầu hết các thống sứ, khâm sứ và những viên chức cấp cao khác đã hưởng ứng bằng danh sách các khu nghỉ mát ở bờ biển có thể thích hợp. Chỉ có ở Trung Kỳ, các nhà chức trách mới đọc chỉ thị của Doumer một cách đủ kỹ lưỡng – hoặc có lẽ chỉ ở đó họ mới dám đương đầu với tiếng tăm khủng khiếp của vùng nội địa – để khảo sát một vài lựa chọn trên cao nguyên, trên khắp Trung Kỳ.

Nhà khoa học kiêm nhà thám hiểm Alexandre Yersin đã hưởng ứng ngay lập tức lời yêu cầu của Doumer tìm hiểu thông tin về một viện điều dưỡng miền núi. Danh tiếng huyền thoại của vị bác sĩ người Thụy Sĩ này chủ yếu bắt nguồn từ việc ông đã khám phá ra trực khuẩn gây ra bệnh dịch hạch vào năm 1894 – loài vi khuẩn đã vĩnh viễn mang tên Pesta yersinia để tôn vinh ông. Ông là một môn đệ trung thành của Pasteur, đã từng làm trợ lý cho Louis Pasteur và Emile Roux vào năm 1886, và về sau đã thành lập một phòng thí nghiệm ở Nha Trang mà rốt cuộc đã trở thành Viện Pasteur vào năm 1905.

Được đào tạo ở Thụy Sĩ, Đức, và Pháp bởi những người tên tuổi như Pasteur và Robert Koch, năng lực và những thành tựu khoa học của Yersin đã biến ông thành cái tên cửa miệng của mọi người ở Pháp, Thụy Sĩ, và Việt Nam: nhà sáng lập Trường Y khoa Hà Nội, người du nhập giống cây cao su của Brazil vào Đông Dương, và tất nhiên là người khám phá bí mật của bệnh dịch hạch. Tính hiếu kỳ của Yersin đã chẳng những đưa ông đến với tất cả các lĩnh vực từ thực vật học đến sinh vật học và y học, mà còn đạt được những thành tựu đột phá trong những lĩnh vực đó. Cho nên chúng ta biết được bao câu chuyện tôn vinh hết sức thuyết phục về Yersin, một trong số ít những kiều dân thuộc địa mà cả người Pháp lẫn người Việt dường như đều chung lòng ngưỡng mộ, bởi vì danh tính và hình ảnh của ông vẫn còn nguyên sau bao cuộc thanh lọc thay đổi tên đường và tượng đài ở Việt Nam kể từ năm 1945.

Ngoài những sổ lộ trình và nhiều sổ ghi chép, Viện Pasteur ở Paris gần đây đã được giao phó một số lượng đồ sộ thư từ trao đổi của ông với mẹ ông ở Thụy Sĩ. Nhờ nguồn tài liệu này, một bức chân dung giàu sắc thái hơn về nhà khoa học nổi bật lên – có lẽ đơn giản là một bức chân dung người hơn. Nó tiết lộ rằng năm 1893, sau khi đụng độ với những tù chính trị vượt ngục người Việt trên đường từ Lang-Bian xuống bờ biển, Yersin đã tham dự cuộc hành hình thủ lĩnh phiến loạn của họ với sự hiếu kỳ bệnh hoạn. Ông khăng khăng đòi chụp hình người thủ lĩnh bị kết án, tên là Thouk . Về sau, ông đã ghi lại rằng chiếc đầu của kẻ phiến loạn đã chỉ rơi xuống sau nhát chém thứ năm.

Năm 1895, trong một bối cảnh hoàn toàn khác, Yersin đã châm biếm cư dân đảo Réunion: “đám da trắng lười biếng… đám da đen và đám lai trắng thì cố khoác lên mình dáng vẻ châu Âu – thật tầm thường và dị hợm làm sao.” Lòng hiếu thảo của nhà khoa học đã khiến ông thu thập “vật lạ” cho mẹ ông trong những chuyến du thám giữa các sắc tộc thiểu số ở cao nguyên Đông Dương. Năm 1894, giữa những chuyến du thám trên cao nguyên Đông Dương, ông thuật lại với nỗi thất vọng rằng ông sẽ phải trao lại những tặng phẩm này cho Musée d’histoire naturelle [Bảo tàng lịch sử tự nhiên] ở Paris. Ông giải thích rằng vị giám đốc bảo tàng này phục vụ trong một ủy ban công tác rất nghiêm ngặt, và chắc chắn sẽ không bằng lòng để hiện vật thu thập trong quá trình công cán chính thức được phân phát như những tặng phẩm gia đình. Cuối cùng, Yersin không phải là người chủ trương tự do, hoặc ủng hộ cải cách thuộc địa. Ông đã kín đáo than phiền, trong thư từ với một bạn thám hiểm, về chính sách “ưu ái An Nam” ngây ngô một cách không che đậy của Toàn quyền de Lanessan. Những hình ảnh nói trên không làm phai mờ được những thành tựu của Yersin trong lĩnh vực nghiên cứu bệnh dịch hạch. Tuy nhiên, chúng nhắc nhở chúng ta rằng Yersin không chỉ phục vụ cho Viện Pasteur, hãng tàu biển Messageries, và khoa học; ông còn dính líu sâu xa đến chủ nghĩa đế quốc Pháp, ngay trong những phương diện mang tính bóc lột và đàn áp nặng nề nhất.

Nhà khoa học hiếu kỳ, xuất chúng này đã dành sự quan tâm đáng kể cho dự án của Doumer. Ông đã phúc đáp Toàn quyền vào ngày 19.7. 1897 bằng những tư liệu về các cao nguyên Trung Kỳ mà ông đã thu thập trong 3 chuyến thám hiểm vào những năm 1892, 1893, và 1894. Những trang nhật ký chứa đựng những gợi ý về một địa điểm lý tưởng cho viện điều dưỡng của Doumer. Thú vị thay, những nhiệm vụ của Yersin từ năm 1892 đến năm 1894 thực tế là không nhằm tìm kiếm vị trí phù hợp cho một trạm nghỉ dưỡng. Về sau ông nhớ lại, các mục tiêu của ông thật ra là liên quan tới việc “báo cáo về những nguồn tài nguyên [của vùng nội địa], về triển vọng chăn nuôi, nghiên cứu các nguồn tài nguyên rừng, và tìm kiếm những kim loại có thể khai thác trong các vùng núi.” Vậy mà Doumer sau đó đã khai thác những trang nhật ký thám hiểm này để lựa chọn một địa điểm làm viện điều dưỡng. Thực may mắn cho Toàn quyền, Yersin đã ghi lại gần như mọi điều chính mắt ông trông thấy.

“Một cao nguyên mênh mông, cằn cỗi nổi bật với những quả đồi tròn.” Mục nhật ký ngày 21.6. 1893 của Yersin viết như vậy. Yersin đã tình cờ đặt chân đến cao nguyên Lang-Bian rộng lớn. 3 ngày trước đó, Yersin đã lần đầu tiên nhìn thấy thật gần ngọn núi Lang-Bian, nhìn xuống vùng cao nguyên mang cùng tên, nơi Đà Lạt sau này mọc lên. Ông đặt bút chì lên trang giấy, vẽ lại thật đúng hình dáng của ngọn núi bên lề văn bản.

Trên chuyến trở lại Lang-Bian vào tháng Hai 1894, Yersin đã ghi nhận nhiều chi tiết hữu ích khác. Với hai ngày đi bộ trên Lang-Bian, ông đã đo được nhiệt độ buổi sáng ở đây là 2 độ C. Chắc chắn những dãy núi hùng vĩ và những số đo nhiệt độ đó đã nhắc Yersin nhớ nhiều về quê nhà Thụy Sĩ của ông hơn là vùng ven biển Việt Nam, nơi ông đã sống từ năm 1891. Trên cao nguyên Lang-Bian, ông đã ngắm nhìn những chú hươu nai đáng yêu thong dong gặm cỏ. Ông đã nhận định rằng chúng là “những vị vua đích thực của xứ sở kỳ lạ này.”Bản đồ mà Yersin vẽ về lộ trình của ông cho thấy ông đã băng qua gần hết cao nguyên Lang-Bian, từ phía Nam tới phía Bắc.

Năm 1897, sau khi đọc kỹ các nhật ký của nhà khoa học, Doumer hưởng ứng nồng nhiệt, mặc dù Lang-Bian vẫn chỉ là một trong vài địa điểm khả dĩ tại thời điểm này. Ông một lần nữa triệu mời Yersin, giao phó cho một nhiệm vụ trên cao nguyên Lang-Bian. Lúc này, ông có một nhiệm vụ duy nhất, rõ ràng: “nghiên cứu địa điểm đặt viện điều dưỡng mà vị Toàn quyền muốn thiết lập trên vùng núi.” Hai tháng sau, Yersin khoe với mẹ ông rằng ông đã thuyết phục vị Toàn quyền “lập một viện điều dưỡng trên Lang-Bian”. Điều này tất nhiên là chính xác, mặc dù Doumer bảo lưu quyền thiết lập những trạm nghỉ dưỡng trên núi khác, và vẫn chưa quyết định nơi nào sẽ làm viện điều dưỡng chính ở Đông Dương.

Trên dãy núi Lang-Bian, Yersin giải thích với mẹ, “có một bình nguyên bao la, hoang vắng rộng chừng 400 kilômét vuông với một ngọn núi mọc lên ở giữa. Độ cao trung bình của bình nguyên là 1.500 mét trên mực nước biển; núi cao hơn 2.000 mét. Con tin rằng địa phương này tốt cho sức khoẻ vì nó hoang vu…” (Imperial heights: Dalat and the making and undoing of French Indochina, tr. 14, 15, 16) (Trích từ bản dịch tiếng Việt của Phanbook).

Chú thích của tác giả: Bản dịch cuốn sách viết về Đà Lạt của Eric T. Jennings biên tập cùng với anh Nguyễn Vĩnh Nguyên từ tháng 11 năm 2021, mãi tới gần cuối tháng 4 năm nay mới ấn hành. Đọc bản dịch tiếng Việt thì đỡ mất công nhưng tốt hơn hết là đọc nguyên tác tiếng Anh.
Ảnh: Eric T. Jennings và tác phẩm “Imperial heights: Dalat and the making and undoing of French Indochina”

HUỲNH DUY LỘC

 

Leave A Reply

Your email address will not be published.