Thánh mẫu Thiên Y A Na, nữ thần Mẹ Xứ Sở của người Chiêm Thành

TVN

0 209

Thánh Mẫu Thiên Y A Na có các tên gọi khác là bà mẹ xứ sở, bà Chúa Ngọc. Người Chăm (Chiêm Thành) gọi là Nữ thần Poh Nagar (hay Pô Ino Nogar).

Tuy chỉ là một vị thần theo truyền thuyết, nhưng thánh mẫu Thiên Y A Na đã được cư dân Việt và Chăm thờ phụng rất tôn nghiêm. Bà Chúa Ngọc đã được nhà Nguyễn – Vua Gia Long, xếp vào bậc “Hồng nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng Thần”.

Truyền thuyết về Bà Thiên Y A Na

Văn bia viết về Bà Thiên Y A NA, tại Tháp Poh Nagar, Nha Trang, do Tiến sĩ, Hiệp biện Đại học sĩ, Lễ bộ Thượng thư Phan Thanh Giản soạn ngày 05 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970, tóm tắt như sau: Xưa kia tại núi Đai An (tức Đại Điền hiện nay) có hai vợ chông ông Tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín, thường hay bị mất. Một hôm, ông rình bắt gặp một thiếu nữ trạc mười chín tuổi hái dưa, dồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương, ông đem về nuôi, hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

Một hôm, trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, thiếu nữ lấy đá chất thành ba hòn giả sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông Tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng lai. Đã buồn thêm bực! Nhân thấy khúc kỳ nam theo nguồn trôi đến, tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ nam, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả, rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay thơm ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ, rủ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiên, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi. Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực. Thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nổi không giở lên, Thái tử lấy tay nhắc thử. Chàng hết sức lạ lùng, vì thấy khúc gỗ nhẹ như tờ giấy! Bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật. Một đêm, dưới bóng trăng mờ, Thái tử thấy có bóng người con gái thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tư bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất một mùi hương nhè nhẹ từ khúc kỳ nam bay ra. Chàng quyết rình xem, suốt mấy đêm liền, không hề thấy gì khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt, từ trong khúc kỳ nam bước ra. Thái tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái tử về cung và cho biết rõ lai lịch. Giai nhân ấy chính là Bà Thiên Y A Na.

Thái tử vốn đã trưởng thành, nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường, bèn tâu cùng phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua sai quan bói cát hung. Bói trúng quê “đại cát”, liền cử lễ thành hôn. Vợ chồng Thái tử ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên là Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô. Thời gian qua, sống trong êm ấm. Nhưng một hôm, lòng quê thúc giục, Bà Thiên Y bồng hai con nhập vào khúc kỳ nam, trở về làng cũ. Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông Tiều đã qua đời. Bà Thiên Y bèn đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn lạc hậu, Bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hoá: dạy dân cày cấy, kéo vải, dệt sợi… và đặt ra lễ nghi… Từ ấy ruộng nương mở rộng, đời sống của nhân dân mỗi ngày thêm phú túc, phong lưu. Công khai hoá của Bà chẳng những ở trong địa phương, mà các vùng lân cận cũng được nhờ.

Rồi một năm sau, vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, một con chim hạc từ trên mây bay xuống, Bà cùng hai con lên lưng hạc bay về Tiên. Nhân dân địa phương nhớ ơn đức, xây Tháp tạc tượng Bà phụng thờ. Và mỗi năm vào ngày Bà thăng thiên, tổ chức lễ tưởng niệm múa bóng, dâng hoa rất tôn nghiêm, long trọng. Ở Bắc Hải, Thái Tử trông đợi lâu ngày, không thấy vợ, con trở về, bèn đem một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền Thái tử đến nơi thì Bà đã cởi hạc quy Tiên. Bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con Bà. Bị oan ức và đau đớn, nhân dân đã thắp hương khấn vái Bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay, đất bằng dậy sóng… đánh đắm đoàn thuyền của Thái Tử Bắc Hải. Theo lời người xưa truyền lại, những cụm đá ở trước cửa Tháp Bà (tức Tháp Poh Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những tản đá đã đánh đắm đoàn thuyền Thái Tử Bắc Hải. Dấu tích những ngôi Tháp, nền văn hoá Chămpa Ngày xưa, ở khu vực Tháp Bà, có một số tháp đã được xây dựng trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13. Một số công trình đã bị đổ nát, nay chỉ còn lại 4 tháp, trong đó tháp lớn nhất là Tháp Pho Nagar, thờ Bà Mẹ Xứ Sở của người Chămpa, là người đã dạy dân Chămpa trồng lúa và các thứ hoa màu. Người Việt ở Nam Trung bộ còn gọi Nữ thần Thiên Y A Na là Bà Chúa Ngọc.

Tháp Po Nagar hay Tháp Bà là ngôi tháp nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại Nha Trang, cách trung tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi “Tháp Po Nagar” được dùng để chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực ra nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao khoảng 23m. Ngôi tháp này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ giáo) đang cường thịnh khi Chăm pa trong giai đoạn có tên gọi là Hoàn Vương Quốc, vì thế tượng Nữ thần có hình dạng của Umar, vợ của Shiva.

Ngọn tháp thứ hai ở chính giữa thờ Thần Cricamblu. Tháp xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có tượng bằng vàng khối. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, người Mã Lai xâm nhập xứ Kaut Hara, cướp mất tượng vàng và phá huỷ ngọn tháp. Vua Satyavarman xây tháp lại và tạc tượng đá thay tượng vàng. Đây chính là Tháp thờ Thái Tử Bắc Hải chồng bà Thiên Y A Na. Ngọn tháp thứ ba ở phía Nam, đứng ngay hàng cùng hai ngọn trước, thờ thần Linga, biểu hiện của thần Sandhaka. Đó là Tháp thờ Ông Tiều, nghĩa phụ của Bà Thiên Y. Ngọn tháp thứ tư đứng phía sau tháp thờ Bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng, mà chỉ có đế thờ (có lẽ bị thất lạc lúc Mã Lai vào cướp phá). Tháp này thờ thần Ganeca. Đó là đền thờ Công chúa Quý. Còn hai tháp nửa, cũng ở sau lưng dãy tháp trước. Đó là tháp thờ Bà Tiều nghĩa mẫu của Bà Thiên Y và Hoàng tử Trí. Tháp đã bị hư nát, chỉ còn nền…Cho nên Bà Tiều đưa về thờ chung cùng Ông Tiều ở tháp thứ ba. Hoàng tử thờ chung với Công chúa ở tháp thứ tư. Phía trước tháp, dưới chân đồi lại có mấy hàng cột cao lớn bằng gạch. Truyền rằng đó là những cột chống vũ đài. Mỗi khi có lễ người ta dùng ván gác lên trên cột thành một sàn gỗ rộng. Vũ nữ và diễn viên ca múa trên sàn gỗ. Thần trong tháp trông ra, nhân dân đứng dưới nhìn lên. Hàng năm, vào đêm giao thừa, một không khí kỳ thú lung linh ở khu vực Tháp Bà xuất hiện. Khi trời đất bước vào Xuân, vạn vật thay đổi chuyển vần, tiết trời đang se se lạnh, tự dưng ấm lại. Người ta cảm nhận được một mùi hương thơm phảng phất. Đây là hương kỳ nam, hương trầm từ rừng sâu thoảng đến quyện vào mùi thơm của nhang và hoa từ nhà dân chúng, và từ các chùa chung quanh bay ra, tạo thành một không gian có mùi thơm huyền bí.

Theo tiếng Chăm, Pô Yang Inư Nagar Kaut Hara có nghĩa là Thiên Ya Na Thánh Mẫu là Nữ thần Mẹ Xứ Sở của bộ tộc Kaut. Pô là từ danh xưng dùng cho thần thánh thiêng liêng, được dịch ra từ Thiên. Yang có nghĩa là Trời, Thánh Thần (nhiều dân tộc Tây Nguyên cũng dùng âm tiếng với ý nghĩa như vậy hoặc đọc trại là Giàng, theo người Êđê ở vùng Buôn Ma Thuột, ĐakLak và Khánh Hòa. Inư là mẹ đã mất, Nagar là xứ sở, đất nước) Inư Nagar đã được phiên âm Việt là YaNa. Kaut Hara là thị tộc Kaut. Hình tượng Poh Nagar Tượng Bà Thiên Y A Na, tượng chính được thờ ở khu Tháp là tượng nữ thần bằng đá xanh nguyên khối thể hiện Mẹ Xứ Sở ngồi xếp bằng trên đài sen, tượng này là một kiệt tác nghệ thuật điêu khắc của người Chămpa xưa, rực rỡ trong quá khứ, vào thế kỷ thứ XI.

Toàn bộ tượng và bệ thờ cao 2,60m, đặt giữa lòng ngôi tháp chính cao 22,40m, nếu nhìn chính diện, tượng có đến 10 cánh tay, gồm 2 cánh chính với 8 cánh phụ ở đằng sau phù điêu hình lá bồ đề gắn liền với tượng. Đây là sự biểu hiện tính toàn năng. Hai cánh tay chính đặt trên đầu gối, bàn tay trái mở ra với ý nghĩa ban phát, bàn tay phải dựng đứng, lòng bàn tay ngửa ra trước, trong tư thế trấn an. Ý nghĩa chung là đem lại sự bình an và ban hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Tám cánh tay phụ gồm có mỗi tay cầm một vật phụ khác nhau như: đoản kiếm, mũi tên, vòng mặt trời Sakra, mũi lao, chuông nhỏ, lưỡi giáo Ankura, tù và bằng vỏ ốc, cách cung. Các cánh tay này tỏa ra hình rẻ quạt, rất sinh động. Tất cả những vật này tượng trưng cho quyền uy và trí tuệ của Nữ thần. Pho tượng đặt trên một Yôni lớn, mỗi cạnh 150cm, gồm nhiều lớp đá chồng khít lên nhau như được đẽo gọt từ nguyên khối. Toàn thân tượng cao 154cm, ngực trần, hai bầu vú căng tròn, bụng có nhiều nếp nhăn, chứng tỏ đã trải qua nhiều kỳ sinh nở, bên dưới mặc một chiếc xà rông. Toàn bộ khối tượng với đường nét, tinh tế, uyển chuyển, thanh thoát, đầy sinh lực, gây cho người nhìn một cảm giác gần gũi mà vẫn giữ được vẻ tôn nghiêm. Truyền thuyết về nữ thần Poh Nagar của người Chămpa Theo truyền thuyết của người Chămpa, Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa Bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước Bà. Khi Bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân Bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp… Nhiều phép thuật, Bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của Bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng Bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép: 1. Nữ thần Xứ Trầm hương: Pô Nagar Galâu. 2. Nữ thần vùng Phan Rang: Pô Tdara Nai Anaith. 3. Nữ thần vùng Phan Thiết: Pô Bia Tikuk. Sự tích Nữ thần Poh Nagar và sự tích Bà Thiên Y A NA thật khác hẳn nhau. Sự tích Nữ thần Poh Nagar của người Chiêm Thành phản ánh chế độ mẫu hệ của người Chăm ngày trước. Sự tích Bà Thiên Y A Na của người Việt biểu lộ tinh thần dân tộc rất sâu đậm, thấm đẫm tính nhân văn và cho chúng ta thấy người xưa xem nghĩa đồng bào nặng hơn tình cảm gia đình rất nhiều. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Lễ hội Am Chúa ở Khánh Hòa Lễ hội Am Chúa được tổ chức từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Am Chúa, núi Đại An, thôn Đại Điền Trung 1, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Đây là dịp sinh hoạt văn hóa tâm linh, để người dân Khánh Hòa nói riêng, khách thập phương cả nước nói chung thể hiện tấm lòng “Uống nước nhớ nguồn”. Nhớ ơn Bà Mẹ Xứ Sở đã dạy cho dân Khánh Hòa biết cày cấy, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải… Thánh Mẫu Thiên Y A Na – Bà Mẹ xứ sở đã khai sáng và truyền dạy cho dân chúng cách làm ăn, sinh sống. Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Y A Na được bắt nguồn từ tục thờ Bà Ponagar của người Chăm. Hay nói đúng hơn, những người Việt đến định cư ở đất này đã Việt hoá tục thờ Bà Mẹ xứ sở của người Chăm bằng truyền thuyết về Bà Thiên Y A Na giáng trần tại núi Đại An và hiển thánh ở Tháp Bà – Nha Trang.

Nguồn bài viết: https://vanhoatamlinh.com/thanh-mau-thien-y-a-na-ba-chua-ngoc/

Leave A Reply

Your email address will not be published.