“Tiếc thay cây quế…” có phải là công chúa nhà Trần ?

Tôn Thất Thọ

0 74

Sử cũ chép rằng, vua Trần Nhân Tông (1278 – 1293) sau khi đã truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông (1293 – 1314) đã lên tu ở núi Yên Tử. Mến cảnh núi sông, ông thường đi du ngoạn các nơi, có lần vào đến đất Chiêm Thành. Trong thời gian ở tại Chiêm, vua Chiêm là Chế Mân đã lấy tình bang giao tiếp đãi nồng hậu. Dịp này, Thượng hoàng hứa gả công chúa là Huyền Trân (1287 – 1340) cho vua Chế Mân.

Ít lâu sau, vua Chiêm cử sứ giả cùng đoàn tùy tùng hơn trăm người, mang lễ vật sang Đại Việt dâng lễ cầu hôn. Triều thần nhà Trần không tán thành, chỉ có Văn Túc Đạo Tái chủ trương việc gả.

Vua Chế Mân tiến lễ luôn trong năm năm để xin làm rể nước Nam, rồi dâng hai châu Ô, Lý (từ một phần Quảng Nam đến địa phận tỉnh Quảng Bình ngày nay) làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân về nước. Huyền Trân làm hoàng hậu nước Chiêm Thành được một năm thì vua Chế Mân mất. Thế tử Chiêm phái sứ giả sang Đại Việt dâng voi trắng và cáo về việc tang. Theo tục lệ nước Chiêm, vua mất thì cung phi phải lên hỏa đàn để tuẫn táng. Vua Trần Anh Tông hay tin vua Chiêm mất, sợ em gái là công chúa Huyền Trân bị hại, bèn sai võ tướng Trần Khắc Chung hướng dẫn phái đoàn sang Chiêm Thành nói thác là điếu tang, và dặn bày mưu kế để đưa công chúa về.

Sang đến nơi, Trần Khắc Chung nói với thế tử Chiêm Thành rằng: “Bản triều sở dĩ kết hiếu với Vương quốc vì vua trước là Hoàn Vương, người ở Tượng Lâm, thành Điển Xung, là đất Việt thường; hai bên cõi đất liền nhau thì nên yên phận, để cùng hưởng hạnh phúc thái bình cho nên gả công chúa cho Quốc vương. Gả như thế vì thương dân, chứ không phải mượn danh má phấn để giữ trường thành đâu! Nay hai nước đã kết hiếu thì nên tập lấy phong tục tốt. Quốc vương đây mất, nếu đem công chúa tuẫn táng thì việc tu trai không người chủ trương. Chi bằng theo lệ tục bản quốc, trước hãy ra bãi bể để chiêu hồn ở trên trời, đón linh hồn cùng về rồi mới hỏa đàn sau”.

Những người trong triều đình Chiêm Thành nghe theo lời giải bày của Trần Khắc Chung, để công chúa xuống thuyền ra giữa biển làm lễ Chiêu hồn cho Chế Mân. Trần Khắc Chung đã bố trí sẵn sàng, cỡi một chiếc thuyền nhẹ chực sẵn, đợi thuyền chở công chúa ra xa, lập tức xông tới cướp công chúa qua thuyền mình, dong buồm ra khơi nhắm thẳng về phương Bắc.

Về sau, các văn nhân thi sĩ cảm hứng về quãng đời lịch sử của công chúa Huyền Trân, đã mượn điệu hát, lời thơ mà làm nên nhiều áng văn còn truyền tụng đến ngày nay…

Từ trước đến nay, mỗi khi nhắc đến câu chuyện Công chúa Huyền Trân, nhiều người thường nhắc đến câu ca dao quen thuộc:

Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo !

Hoặc một câu khác có hình thức biến thể của câu trên:

Tiếc thay cây quế Châu Thường,
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo!

(Châu Thường ở Thanh Hóa là nơi có rất nhiều quế).

Thực tế đã có lý giải rằng; câu ca dao trên không liên quan gì đến câu chuyện trên; nó được xuất phát từ những sự việc xảy ra từ đời nhà Lý:

Dưới thời vua Lý Thái Tông (1028-1054), công chúa Bình Dương đã được gả cho tù trưởng Phong Châu là Lê Ninh Thuận; công chúa Trường Ninh thì gả cho tù trưởng Thượng Oai là Hà Thiện Khoan. Đến đời vua Lý Nhân Tông (1072-1127), công chúa Khâm Thành được gả cho tù trưởng Vị Long là Hà Di Khánh. Dưới thời Lý Anh Tông (1138-1175), công chúa Thiều Dung được gả cho tù trưởng Phú Lương là Dương Tự Minh. Vào thời điểm đó, đó là chính sách hòa hiếu của triều đình nhằm phủ dụ người dân tộc thiểu số, mục đích để họ không quấy phá làng mạc miền Trung du và hạ bạng. Đó cũng là kế hoạch phủ dụ “man dân” nơi biên phòng, biến họ thành phiên hàng, phên dậu củng cố biên cương. Kế hoạch này được các triều đại về sau áp dụng trên một phạm vi rộng lớn hơn trong các cuộc bang giao với các nước lân bang, nhằm gây thanh thế bằng cách giao hiếu kết thân.

Sách Việt Nam phong sử của cụ Nguyễn Văn Mại

Để giải thích câu ca dao này, cách đây hơn 100 năm, cụ Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại (1852- ?), Bố chánh Thanh Hóa đã chép trong cuốn Việt Nam phong sử được in dưới thời Duy Tân thứ 8 (1914) như sau: (phần dịch nghĩa của Tạ Quang Phát):

“Thơ phong sử này thuộc tỷ.

Quế là cây ngọc quế. Mán – Mường là những bộ lạc người Thượng ở Bắc Kỳ.Triều nhà Lý, đi kinh lý miền thượng du, cho những tù trưởng các phiên trấn làm thủ lãnh coi việc binh dân, nhưng lại lo ngại khó chế ngự được họ, mới mượn việc hôn nhân mà ràng buộc họ.

Trong thời kỳ đầu vua Lý Thánh Tông, công chúa Bình Dương gả cho tù trưởng Lạng Châu là Thân Thiệu Thái; công chúa Kim Thành gả cho tù trưởng Phong Châu là Lê Ninh Thuận, công chúa Trường Ninh gả cho tù trưởng Thượng Oai là Hà Thiện Khoan. Trong thời vua Lý Nhân Tông, công chúa Khâm Thánh gả cho tù trưởng Vị Long là Hà Di Khánh.

Trong thời vua Lý Anh Tông, công chúa Thiếu Dung gả cho tù trưởng Phú Lương là Dương Tự Minh.

Đó là mưu kế dùng mỹ nhân để chống chế các tù trưởng người Mán vậy.

Nhưng đường đường triều đình nhà Lý há lại không có phương lược có thể chế ngự các tù trưởng người Mán hay sao, lại phaỉ dùng những trang nữ nhi cành vàng lá ngọc, yểu điệu thướt tha, để trấn yên biên cảnh ?

Chiếc xe hôm đưa công chúa cung kính hòa thuận lên miền thượng du, nhân dân trong nước đều trông thấy. họ không xiết buồn thương cho nàng, cho nên lấy cây đan quế mà ví sánh.

Nói công chúa của hoàng gia như cây đan quế vậy chăng? Công chúa mà gả cho tù trưởng Mán, cũng như cây quế để cho thằng Mán trèo leo vậy chăng?

Thật là đáng tiếc !”

Qua lời giảng bình của cụ Tiểu Cao, câu phong dao lịch sử (phong sử) trên hoàn toàn thuộc về triều đại Lý. Ngoài ra, qua sự giải thích cặn kẽ căn cứ trên nhiều tài liệu, chúng ta được biết dưới thời nhà Lý (1010-1225), có rất nhiều bộ lạc và tù trưởng ở vùng châu thổ, không xa kinh thành Thăng Long, như Phong Châu thời Hai Bà Trưng (Sơn Tây), Phú Lương (sông Hồng).

Đối với câu dị bản Tiếc thay cây quế Châu Thường/ Để cho thằng Mọi thằng Mường nó leo! thì có thể nhận thấy rằng, câu phong dao này đã biến đổi hình thức trên đường Nam tiến để thích ứng với địa phương phong thổ. Câu này từ miền Bắc vào vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh với cây quế có vỏ đỏ (đan quế) mọc nhiều ở hai châu Thường Xuân và Trịnh Vạn (Thanh Hóa), thường gọi là quế Thanh, vừa dày vừa thơm, danh tiếng lâu đời nhất và được triều đình dùng làm cống phẩm.

Cũng theo cụ Nguyễn Văn Mại, câu phong dao đề cập đến sự kiện công chúa Huyền Trân chính là câu sau:

Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vò nước đục laị vần lửa rơm.

Và được ông bình giải:

“Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành Chế Mân. Từ triều đình tới đồng nội, văn nhân thường mựơn việc Chiêu Quân cống Hồ (Chiêu Quân nhà Hán gả cho Hung nô) làm thơ quốc cấm mà châm biếm.

Đến khi Chế Mân chết, vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung sang đưa công chúa về nước, Khắc Chung bèn tư thông với công chúa.

Đầu tiên Khắc Chung với chức Ngự sử Đại phu, được thăng làm Nhập nội Hành khiển Thượng thư Tả Bộc xạ, về sau được ban tước Quan nội hầu và thăng chức Thiếu bảo Đồng Trung thư, Bình chương sự. Khắc Chung làm quan mà không có công trạng gì.

Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng mỗi lần gặp Trần Khắc Chung liền mắng: “Tên họ của người này chẳng lành cho nhà nước, có phải chăng nhà Trần sắp mất vì người này chăng ?” (Trần Khắc Chung có nghĩa là nhà Trần phải cáo chung ).

Trần Khắc Chung thường sợ mà né tránh Trần Quốc Tảng.

Câu phong dao này tiếc công chúa Huyền Trân với tư dung quý báu như vàng ngọc, mà phải gả làm vợ cho vua Chiêm Thành, lại bị viên quốc sứ (Trần Khắc Chung) tư thông.

Gạo trắng chỉ công chúa Huyền Trân; nước đục chỉ vua Chiêm Thành; lửa rơm chỉ Trần Khắc Chung.

Nay vì công chúa đã lấy viên tù trưởng mà không được cùng một người trọn kiếp, còn Trần Khắc Chung phụng sứ giao hảo với lân quốc, lại làm những hành vi ô nhục xấu xa, cho nên người đương thời thấy tiếc cho việc ấy. Còn gả cho Trần Khắc Chung hẳn không đáng trách.

Nhưng kế cao khống chế nước láng giềng của triều nhà Trần, không khỏi giẫm lên dấu xe trước của nhà Lý, cũng là đáng tiếc vậy.”(Việt Nam phong sử, sđd, tr 90).

Nếu những sự giải thích trên là phù hợp thì điều đó cho thấy rằng chính sách gả cưới, hôn nhântừng là một sách lược của một vài triều đại, và được áp dụng khá sớm, ít nhất cũng từ thời nhà Lý. Những nàng công chúa chính những đặc sứ ngọai giao của triều đình ; họ trở thành những sứ thần đi giao hảo, hình thành nên mối quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng, tạo điều kiện cho sự phát triển của đất nước…

TÔN THẤT THỌ

———————————————————————————–

TÀI LIỆU THAM KHẢO

– Nguyễn Văn Mại, Việt Nam phong sử, Phủ QVK đặc trách Văn hóa, SG, 1972.

Leave A Reply

Your email address will not be published.