Vùng đất Tầm Phong Long ở đâu?

TVN

0 331

Năm Đinh Sửu (1757), Nặc – nguyên, quốc vương Chân Lạp mất, chú họ là Nặc-nhuận đang làm giám quốc, xin hiến đất Srok Kleang và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang – Ba Thắc), cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát chấp thuận.

Nhưng liền sau đó Nặc-nhuận bị con rể là Nặc-hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc-nhuận là Nặc Tôn, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc-hinh và đưa Nặc-tôn về nước. Nặc-tôn được phong làm phiên vương. Để tạ ơn, Nặc-tôn cắt đất Tầm Phong Long (vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu), phía bắc của vùng Srok Kleang và Préah Tra-peang, dâng cho chúa Nguyễn.

Theo Vương Hồng Sển, âm/ Tầm Phong Long/xuất phát từ “Kompong Luông” của tiếng Khmer, có nghĩa là bến, vũng, sông của vua.

Tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long là một trong những sự kiện đặc biệt trong lịch sử dân tộc, nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ quốc ta về phương nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982-1757).

Ngay sau khi tiếp thu, đất Tầm Phong Long được Nguyễn Cư Trinh lập thành 3 đạo: Đông Khẩu đạo, Tân Châu đạo, Châu Đốc đạo và đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ: Dinh Long Hồ lập năm 1732, năm 1800 đổi thành Vĩnh Trấn, năm 1808 đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An Bình Đông (Cái Bè) về xứ Tầm Bào (thuộc thôn Long Hồ, thành phố Vĩnh Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, chiến thuyền dễ dàng tiến thoái hơn. Từ đâu dinh Long Hồ có Đông Khẩu đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo và đồn Châu Đốc bảo vệ. Để khai thác vùng tân cương, đồng thời để xác định biên giới rõ rệt giữa hai nước, mặc dù có sự can ngăn của quan lớn Sen Nguyễn Văn Nhơn, năm 1817, vua Gia Long vẫn lệnh cho Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đào kinh núi Sập (sau gọi là Thoại Hà). Hai năm sau (1819), lại cho đào kênh Vĩnh Tế, kéo dài 5 năm mới xong.

Đào hai con kênh này quả có tác dụng vô cùng quan trọng trong công cuộc mở mang kinh tế và giữ yên bờ cõi. Nên chỉ hơn 10 năm sau, đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vùng đất mới này thành được hai phủ:

Tuy Biên gồm 2 huyện Tây Xuyên, Phong Phú.

Tân Thành có 2 huyện là Vĩnh An và Đông Xuyên.

Đây là cương vực ban đầu của tỉnh An Giang sau này. Đến năm 1835, lấn đất Ba Thắc lập thêm phủ Ba Xuyên, cai quản 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Đến năm l836, chia ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long và An Giang. Lúc này Tân Châu đạo thuộc huyện Đông Xuyên và Đông Khẩu đạo thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang.

Tiếp theo năm 1839, lập thêm huyện An Xuyên ở phủ Tân Thành, năm 1842 lấy phủ Tịnh Biên và huyện Hà Dương của Hà Tiên sáp nhập vào. Đến năm 1844, lập thêm huyện Hà Âm. Năm 1850, giải thể phủ Tịnh Biên cùng huyện Hà Âm, lấy đất này nhập vào huyện Hà Dương(1).

Như vậy đến khi Tự Đức lên ngôi, tức là gần tròn 100 năm sau khi thuộc chủ quyền người Việt, vùng Tầm Phong Long được khai mở với tiến độ khá nhanh, thành lập 274 xã thôn, phường, bang, được quy vào 3 phủ với 10 huyện, nằm trong địa phận tỉnh An Giang, tỉnh thành đặt tại Châu Đốc:

Phủ Tuy Biên, có 4 huyện: Tây Xuyên gồm 3 tổng với 38 xã, thôn, phố bang; Phong Phú gồm ba tổng với 31 thôn; Hà Dương (tức Lình Quỳnh) có 4 tổng với 40 thôn, phố phường; Hà Âm (tức Giang Thành) gồm 2 tổng, 40 xã thôn.

Phủ Tân Thành có 3 huyện: Vĩnh An gồm 4 tổng với 36 xã, thôn, phố, bang, huyện lỵ đóng tại thôn Vĩnh Phước (Sa Đéc), An Xuyên gồm 3 tổng với 25 xã thôn, huyện lỵ đặt tại thôn Tân Hựu; Đông Xuyên gồm 4 tổng với 33 xã thôn, huyện lỵ đóng ở thôn Long Sơn.

Phủ Ba Xuyên có hai huyện: Phong Nhiêu gồm 3 tổng với 17 xã thôn, huyện lỵ tại thôn An Khánh; Vĩnh Định gồm 4 tổng với 19 xã thôn, huyện lỵ tại thôn Đại Hữu.

Năm 1867, Pháp chiếm An Giang, chia vùng này ra 5 hạt (rồi đổi hạt thành tỉnh) Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc…

Ngày nay thuộc địa phận các: tỉnh An Giang, TP. Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và các huyện nam sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp.

Vùng đất Đông Khẩu đạo gồm: các huyện Châu thành, thị xã Sa Đéc huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp ngày naY. Trụ sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước), được lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, trong đó có nhiều thôn đạt diện tích khai thác thuộc loại lớn ở Nam bộ, như Tân Hưu, Tân Long, Long Hậu, Tân Lộc, Vĩnh Phước… Dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ điểm cư dân hình thành về phía sông Tiền; ngoài Sa Đéc: Nha Mân(2), Cái Tàu Hạ(3), Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, về phía sông Hậu có Cường Oai (Lai Vung), Cường Thành (Lấp Vò)…

Bến đò tại Sài Gòn năm 1896

Người Hoa đến đây đa phần là người Phước Tiến giỏi buôn bán hơn làm ruộng, nên chỉ có thiểu số làm nghề nông chung với người Việt hai bên bờ rạch Nha Mân. Điều này được Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt chép: “Sông Nha Mân ở phía bắc huyện An Xuyên ở bờ nam sông Tiền, chảy qua hướng nam rồi chuyển lên hướng tây chẻ ra các ngã: Tam Sao/Ba Miếu, Chàng Trà/Trà Kiệt, Cổ Đồ Bà/Cha Và, Cam Phù Ly, rồi đến Bồn Giang/Cái Vồn chảy ra sông Hậu. Dọc theo hai bờ sông có nhiều ruộng vườn của người Tàu(4) mới khai phá .

Chợ Nha Mân hay rộng hơn là vùng Tân Hựu là trung tâm của vùng tập trung dân cư khá đông (Việt, Hoa, Khmer), vì vị trí nằm giữa Long Hồ và Sa Đéc, lại thêm thổ nhưỡng rất đặc biệt, nhất là nước sông Nha Mân rất ít độ phèn so với toàn vùng, rất thuận lợi cho phát triển nghề nông, làm vườn. Câu: “Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, gái nào bảnh bằng gái Nha Mân” nhằm ngợi ca sắc đẹp người con gái Nha Mân nhất là nước da trắng. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), huyện Vĩnh An tách ra làm hai thành lập huyện mới mang tên An Xuyên, trị sở của huyện đóng tại thôn Tân Hựu(5). Chung quanh dinh thự tại huyện lỵ tập trung nhiều dân cư buôn bán ngày một sung túc, được dân gian quen gọi là chợ Dinh, sự sung túc của chợ được ca ngợi qua mấy câu:

Đố anh con rít mấy chưn,

Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người;

Chợ Dinh bán áo con trai,

Chợ Trong bán chỉ, chợ Ngoài bán kim…(6)

Trong cuộc nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh (1777-1802), sau bao nhiêu lần thảm bại trước lực lượng bách chiến bách thẳng của Tây Sơn, năm 1788, Nguyễn Ánh về lập căn cứ ở Tân Long (Long Hưng), kề cận Sa Đéc. Lợi dụng chính quyền cơ sở của Đông định vương Nguyễn Lữ (Tây Sơn) trên địa bàn này quá non yếu, chưa thực hiện được công trình kinh tế – xã hội nào nhằm cải thiện, phục vụ đời sống cho nhân dân địa phương. Nguyễn Ánh triệt để khai thác lợi thế về vị trí và vai trò của con người và vùng đất Đông Khẩu đạo. Biến nơi này thành trung tâm thu hút nhiều quan văn, võ tướng, đại điền chủ trung thành với quan niệm tôn phò “chính thống”. Thế lực này đã góp phần giúp Nguyễn Ánh đánh bật Tân Sơn ra khỏi Nam bộ. Cuộc nội chiến vô hình chung biến vùng Đông Khẩu đạo thành nơi tập trung một số môn đồ Nho học, ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi Nho học vốn chưa phổ biến sâu rộng. Điều này tác động không nhỏ đến quá trình hình bản sắc văn hóa địa phương.

Đạo Tân Châu gồm phần đất phía bắc sông Tiền, của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tân Châu của tỉnh An Giang ngày nay, trị sở lúc đầu đóng trên cù lao Gieng, sau dời về thôn Long Sơn, trên cù lao Cái Vừng. Đất Tân Châu như những chiếc chiến hạm khổng lồ, nằm án ngữ trên dòng sông Cửu Long, ngăn chặn sự xâm nhập từ hướng Chân Lạp.

Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nguyễn Cư Trinh lấy Dinh châu làm trị sở của Tân Châu đạo(7). Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép rõ: “Dinh châu, tục gọi là cù lao Gieng ở thượng lưu sông Tiền, cách trấn về phía tây 117 dặm. Trước kia là đất thuộc đạo Tân Châu. Ở đây có dân cư của 4 thôn: Toàn Đức, Mỹ Hưng, Toàn Đức Đông, Phú Hưng. Phía tây có cù lao nhỏ cư dân của các thôn: Tân Phước, Phú An và Tân Tịch (tức cù lao Trâu, còn gọi là Ngưu châu). Phía nam có cù lao nhỏ cư dân của thôn Tân Thới”.

Tại đây có xây dựng một đồn lớn giữa hai sông làm trung tâm kiêm quản luôn cả hai thủ Chiến Sai và thủ Hùng Ngự. Do đồn Tân Châu vừa trú đóng nơi địa đầu hiểm yếu vừa cai quản hai thủ khác, nên Tân Châu không thuộc quyền cai quản của trấn địa phương là Long Hồ, rồi sau đó là Vĩnh Thanh mà trực tiếp thuộc quyền điều động của Gia Định phủ rồi Gia Định thành tức là chính quyền trung ương của Nguyễn Ánh. Điều đó cho thấy vai trò, vị thế của Tân Châu đạo trong việc bảo vệ tuyến biên giới tây nam. Trên tuyến này từ Tây Ninh đến Hà Tiên, dưới thời chúa Nguyễn và đầu nhà Nguyễn, có bố trí các đồn thủ biên phòng, như Quang Hóa (Tây Ninh), Tuyên Oai, Thông Bình, Hùng Ngự (Định Tường), Tân Châu, Chiến Sai, Châu Đốc (An Giang)… Trong đó, đồn Tân Châu nằm ở vị trí đặc biệt nhất(8 ).

Năm 1795, để lấy lòng người Chân Lạp với mục đích giữ yên vùng biên giới tây nam, để tập trung vào việc chuẩn bị binh lực tiến công Tây Sơn ở miền Trung, chính quyền Gia Định trao trả 68 sở thủy lợi ở vùng biên giới (trên sông Sở Thượng và Sở Hạ) cho chính quyền Chân Lạp. Điều này càng làm cho trách nhiệm giữ yên biên giới của Tân Châu đạo nặng nề hơn, vì trước đây có các sở này làm vùng đệm, nay đồn Tân Châu phải tiếp cận sát sườn với Chân Lạp.

Đến năm Gia Long thứ 17 (1818 ), tình hình trong nước biên giới ổn định, triều đình ra lệnh dời đạo thủ Tân Châu đến cù lao Long Sơn, dời đạo thủ Chiến Sai đến cửa trên sông Hiệp Ân (sông Hồng Ngự ngày nay), dời đạo thủ Hùng Ngự đến cửa dưới sông Hiệp Ân(9).

Đạo Châu Đốc với đất đai trải dài dọc theo biên giới Chân Lạp, bên cạnh công lao khai hoang mở cõi các thế hệ trước còn đổ nhiều xương máu để giữ yên cương vực trong suốt một thời gian dài đương đầu chống lại âm mưu đông tiến của người Xiêm, thường tận dụng mọi cơ hội để ra tay.

Đến tháng 9 năm Tân Sửu (1841), lợi dụng khi quân ta do Trương Minh Giảng thống lĩnh, rời Chân Lạp về nước, người Xiêm dựng lên một hoàng tôn (cho là con hoàng tử Cảnh, cháu nội đích tôn của vua Gia Long, người chính thức được lên ngôi sau khi Gia Long băng hà, chứ không phải hoàng tử là Đảm, tức Minh Mạng), tập hợp một số người Lào, Chân Lạp, Việt… về nước giành lại ngôi báu, dưới sự bảo trợ của họ.

Để thực hiện âm mưu này, tháng Giêng năm Nhâm Dần (1842) Phi Nhả Chất Tri sai tướng Ô Thiệt Vương cho thủy quân tấn công Phú Quốc thăm dò, trên bộ, cho khoảng 5.000 quân hộ tống hoàng tôn đến Sách Sô (thuộc hạt Nam Ninh, trấn Tây Thành) và 10 thuyền đến đồn Cần Thăng thám sát kích động người Chân Lạp nổi dậy ở phủ Ba Xuyên, Sóc Trăng, Thất Sơn… qua tháng Hai, chúng xua đại quân tràn qua kinh Vĩnh Tế kết hợp với quân nổi dậy đánh phá các đồn Thất Sơn, Tân Châu, An Lạc, Hồng Ngự, Thông Bình… cướp bóc, bắn giết… gây thảm cảnh tang tóc khắp tuyến biên giới, nhất là ở Hà Tiên. Quân triều huy động quân binh cả 6 tỉnh Nam kỳ do tổng đốc Định Biên Lê Văn Đức làm tổng thống quân vụ, thự tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, tổng đốc An Hà Phạm Văn Điển cùng đề đốc An Giang chia đường cùng nhân dân địa phương ra sức đương cự với giặc trên một tuyến dài từ Tiền Giang qua Hậu Giang, Thất Sơn đến tận Hà Tiên. Đến tháng Năm, ta tăng cường quân số, chia làm năm mũi tiến đánh, phá tan các chiến lũy của giặc, có đến cả ngàn ra hàng trong đó phần lớn là người Hoa và Chân Lạp. Thừa thắng ta truy đuổi giặc đến tận Phnom Pênh.

Nếu trong buổi đầu Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh là người quy hoạch đất đai, thiết chế hành chánh, xây dựng đồn bảo, điều động binh lính bảo đảm an ninh vùng đất mới, thì Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại là người đã từng trực tiếp đốc suất việc đào kinh Vĩnh Tế, mở ruộng lập vườn, đắp nhiều đường, bắc cầu để phục vụ yêu cầu giao thông trong xứ và với nước láng giềng Chân Lạp, sau đó Doãn Uẩn, tổng đốc An Hà, ngoài đại công dẹp loạn, ông còn đặc biệt quan tâm ổn định đời sống nhân dân, chăm lo cả về sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng, tạo niềm tin, chỗ dựa tinh thần với ước vọng an lành cho cuộc vùng biên giới Tây nam tổ quốc. Chùa Tây An được Doãn Uẩn chủ trương xây dựng trong niềm ước vọng đó.

Nhưng có một người không phải là quan chức nhà nước, không hưởng bổng lộc của triều đình, bị giam lỏng trong chùa Tân An, lại góp phần không nhỏ trong công cuộc “an tây”, từ quy dân khai hoang lập ấp đến khai sáng ra một mối đạo, mà hàng trăm năm sau có tới hàng triệu tín đồ khắp đồng bằng sông Cửu Long. Vị đó là Phật thầy Tân An Đoàn Minh Huyên, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

 

CHÚ THÍCH:

(1) Quốc sử quán (1972) Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, Phủ quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa (Sài Gòn), tr.9.

(2) Nha Mân: Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký là do tiếng Oknà Mẳn. Tuy nhiên cũng có người cho rằng là do Oknà Muối vì nó gần với âm “nha mân” hơn. Oknà hay Oknha là một quan chức của người Khmer/ Chân Lạp có quyền cai quản một trấn, một hạt.

(3) Theo nhà Nam bộ học Sơn Nam, Cái Tàu là địa danh chỉ nơi có nhiều người Tàu cư ngụ. Cái Tàu Hạ để phân biệt với Cái Tàu Thượng ở Hội An (nơi giáp ranh giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Ở Nam bộ, ngoài hai địa danh này còn có địa danh Cái Tàu và Ngã ba Tàu ở Cà Mau. Nơi đây cũng là nơi có nhiều người Tàu cư ngụ, nhưng cũng là nơi bọn cướp biển Tàu Ô thường lẩn trốn và tại ngã ba này có một doi đất hình mũi tàu nhô ra. (Xem thêm Tìm hiểu địa danh Nam bộ của Nguyễn Hữu Hiếu, Nxb. KHXH, 2005 ).Trong Bản dịch Đại Nam nhất thống chí, tập 5 của Viện sử học, Nxb Thuận Hóa, 2006, ở trang 201 và 204, dịch tên hai con rạch Cái Tàu Hạ là kênh Hạ Thuyền và rạch Cái Tàu Thượng là kênh Thượng Thuyền nghe rất xa lạ, không biết hai con rạch này trên thực địa nằm ở đâu!

(4) Quốc sử quán, Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập III, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24.

(5) Quốc sử quán: Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập Hạ, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24.

(6) Nhưng không biết ám chỉ chợ Dinh nào, vì có một số chợ ở nơi khác cũng mang tên chợ Dinh.

(7) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, tập Trung, tr.16.

(8 ) Quốc sử quán: Đại Nam thực lục T.II, tr.126-136.

(9) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Nxb Đồng Nai, 2005, tr.219-220.

(10) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.9.

(11) Dẫn lại Thawi Swangpanyankoon, trong Xưa&Nay, số 2003 (131) .

Trích tạp chí Xưa & Nay

Leave A Reply

Your email address will not be published.