Edward Lansdale và bi kịch của nước Mỹ ở Việt Nam

Huỳnh Duy Lộc

0 1,468

Max Boot và “The road not taken: Edward Lansdale and the American tragedy in Vietnam” (Con đường đã không đi: Edward Lansdale và bi kịch của nước Mỹ ở Việt Nam)

Max A. Boot là người Nga gốc Do Thái sinh ngày 12 tháng 9 năm 1969 tại Moscow vào thời Liên Xô, theo cha mẹ di cư sang Mỹ vào năm 1976. Anh theo học cử nhân khoa Sử ở Đại học Berkeley, California rồi học cao học khoa Lịch sử bang giao quốc tế ở Đại học Yale. Anh bắt đầu nghề làm báo bằng những bài báo viết cho tờ báo The Daily Californian của sinh viên Đại học Berkeley, rồi về sau viết bài cho nhiều tờ báo như The Weekly Standard, Los Angeles Times, The Wall Street Journal, The Washington Post và The New York Times. Anh là một nhà sử học, một nhà phân tích chính sách đối ngoại được Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế coi là “chuyên gia hàng đầu về các cuộc xung đột vũ trang trên thế giới”. Anh giữ ghế giảng viên Jeane J. Kirkpatrick Senior Fellow về nghiên cứu an ninh quốc gia ở Hội đồng Quan hệ đối ngoại (Council on Foreign Relations).

Tác phẩm mới nhất cùa anh là “The Corrosion of Conservatism: Why I Left the Right” (Sự xói mòn của chủ nghĩa bảo thủ: Vì sao tôi từ bỏ cánh hữu?) xuất bản vào tháng 10 năm 2018. Cuốn tiểu sử đại tá Edward Lansdale với nhan đề “The road not taken: Edward Lansdale and the American tragedy in Vietnam” xuất bản vào tháng 1 năm 2018 đã nhanh chóng trở thành một cuốn sách best-seller và được chọn vào vòng chung kết tranh giải thưởng Pulitzer năm 2019.

Đề tài của quyển sách “The Road not Taken” là Edward Lansdale, một cố vấn Mỹ và là một người bạn được Tổng thống Ngô Đình Diệm tin cậy. Có mặt tại miền Nam từ giữa thập niên 1950 trong giai đoạn đầu của nền Đệ nhất Cộng hòa, ông Lansdale giữ một vai trò quan trọng, có tính cách quyết định đối với vận mệnh miền Nam Việt Nam. Với cấp bậc đại tá Không quân, ông Lansdale là Trưởng Phái bộ Quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM) tại Saigon, người chủ trương tranh thủ “trái tim và khối óc” của người dân như một chiến lược để kiềm hãm sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.

Edward Lansdale là ai?

Không như đa số các đồng nghiệp và đối thủ của ông sau này có trách nhiệm đề ra chính sách đối ngoại của Mỹ, những người thuộc thành phần ưu tú hoặc thuộc các gia đình tài phiệt Phố Wall và theo học các trường danh giá nhất nước Mỹ, Edward Lansdale xuất thân từ một gia đình trung lưu, cha là một giám đốc điều hành trong kỹ nghệ sản xuất xe hơi trong thời kỳ sơ khai của nền kỹ nghệ này.

Chào đời vào năm 1908 tại thành phố Detroit, Lansdale theo học báo chí tại UCLA (University of California, Los Angeles) nhưng bỏ ngang và hoạt động trong ngành quảng cáo cho các khách hàng như công ty Levi-Strauss và Ngân hàng Wells Fargo, ông gia nhập quân đội sau trận Trân Châu Cảng, và được Wild Bill Donovan, sáng lập viên của OSS, tiền thân của CIA, tuyển mộ vào đội ngũ tình báo quân sự.

Ông được điều sang Philippines để tìm cách đàn áp một cuộc nổi dậy và chặn bước tiến của chủ nghĩa Cộng sản. Để đạt mục tiêu, ông giật dây một cuộc phản cách mạng, hoàn toàn bứng gốc các thành phần nổi dậy qua một chiến lược quân sự vững chắc, một bộ máy cai trị tốt đẹp, kết hợp với những chiến dịch “tâm lý chiến” hữu hiệu. Trong vỏn vẹn 3 năm, Lansdale thành công trong sứ mạng giúp Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Ramon Magsaysay, bạn ông, trở thành một nhà lãnh đạo được lòng dân, xứng đáng với chức vụ Tổng thống Philippines. Quan trọng không kém, ông tìm cách ảnh hưởng tới các quyết định ở Washington bằng cách thuyết phục các ký giả Mỹ viết những bài báo đại loại như “Ramon Magsaysay: người bạn tốt nhất của chúng ta ở châu Á.”

Phái Lansdale sang Việt Nam vào năm 1954, Ngoại Trưởng John Foster Dulles yêu cầu: “Hãy làm điều mà anh đã làm ở Philippines.” Edward Lansdale là người có công trạng lớn trong các hoạt động chống nổi dậy của chính phủ Mỹ; ông đã thành công phần nào trong việc chặn làn sóng Cộng sản chiếm trọn Việt Nam vào thập niên 1950 trong những ngày đầu Chính phủ Hoa Kỳ can dự vào tình hình chính trị ở Việt Nam.

Ông đóng một vai trò thiết yếu trong việc tạo dựng và duy trì chế độ do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo tại miền Nam, và là người đề xuất học thuyết “tranh thủ con tim và khối óc” của người dân để kiềm hãm sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, đẩy mạnh phương thức chống nổi dậy lấy dân cư làm trung tâm, cách tiếp cận được những người ủng hộ mô tả là một phương thức chiến tranh nhân bản, phù hợp với các lý tưởng tự do của người Mỹ.

Được ông Diệm tín cẩn, Edward Lansdale gặp ông Diệm hầu như hàng ngày, ông luôn luôn kiên nhẫn lắng nghe ông Diệm độc thoại hàng giờ, mặc dù ông không nói được tiếng Việt hay tiếng Pháp. Từng hoạt động trong ngành quảng cáo, Lansdale thích chiến tranh tâm lý và tìm hiểu nền văn hóa nước sở tại để vận dụng tâm lý chiến một cách hữu hiệu. Ông tin tưởng mạnh mẽ vào khái niệm dân chủ, tôn vinh hiến pháp Mỹ do các nhà lập quốc (Founding Fathers) soạn ra, và nhiều lần tỏ ý mong muốn Tổng thống Ngô Đình Diệm trở thành “một cha già dân tộc” của Nam Việt Nam, khiến Tổng thống Diệm có lúc phải gắt lên: “Đừng gọi tôi là Papa nữa!”

Lansdale đã trở thành người bạn Mỹ ông Diệm tin cậy nhất, nhưng đến cuối năm 1956, ông phải trở về Mỹ nhận một nhiệm vụ khác vì cấp trên của ông cho là ông đã hoàn thành mỹ mãn công việc được giao, giúp ông Diệm củng cố được quyền hành, đủ sức lãnh đạo miền Nam trong cuộc chiến chống những người Cộng sản. Ngoại trừ một chuyến trở lại Việt Nam trong một tuần vào năm 1960 để khảo sát tình hình cùng với tướng Maxwell Taylor và giáo sư Walt Rostow, ông hoàn toàn bị gạt ra khỏi mọi hoạch định chính sách về Việt Nam của Chính phủ Mỹ từ khi ông rời Việt Nam cho tới ngày 1 tháng 11 năm 1963, khi cuộc đảo chánh lật đổ anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm diễn ra. Tổng thống Kennedy cũng có ngỏ lời yêu cầu ông trở lại Việt Nam vào tháng 10 năm 1963 theo đề nghị của đại sứ Cabot Lodge, dàn xếp sự ra đi của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, và nếu cần thì tổ chức một cuộc đảo chánh, nhưng ông đã từ chối. Điều trớ trêu của số phận là cơ quan của ông là Lầu Năm Góc tổ chức bữa liên hoan để chia tay ông khi ông về hưu vào buổi tối ngày 31 tháng 10 năm 1963 thì ngay ngày hôm sau, người bạn thân của ông là Tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và bị sát hại cùng với người em trai là ông Cố vấn Ngô Đình Nhu.

Một thời gian sau, nhiều người chịu trách nhiệm trong việc lật đổ ông Diệm đã nhận ra sai lầm lớn lao của mình. Lansdale có kể rằng mấy năm sau đó, khi uống rượu say ở Saigon, anh chàng Lou Conein cứng cỏi “đã khóc lóc xin tôi tha thứ cho những việc làm của anh ta trong cuộc đảo chánh”. Nhưng đó không chỉ là lỗi của Lou Conein. Anh ta chỉ làm theo lệnh của cấp trên. Nhiều chục năm sau, Lansdale viết: “Thật sai lầm về mặt tinh thần và thật ngu xuẩn về mặt chiến lược khi gây chia rẽ trong cơ sở chính trị của chúng ta ở Việt Nam, một cơ sở nhỏ bé như vậy lại đang phải đối đầu với một kẻ thù rất mạnh mẽ, biết tận dụng mọi cơ hội. Napoléon có nói: “Người ta không nên chia rẽ lực lượng của mình khi đối mặt với kẻ thù”. Chính phủ Kennedy đã không giữ được nguyên tắc này; những lực lượng chống Cộng đã sa sút tinh thần, rơi vào tình trạng hỗn loạn và bị chia rẽ. Người Mỹ không còn lựa chọn nào khác hơn đưa những người lính của mình đến chiến đấu, nếu không muốn những người Cộng sản chiến thắng…” (The road not taken: Edward Lansdale and the American tragedy in Vietnam, tr. 414, 415)

Sai lầm của người Mỹ khi hậu thuẫn cho các tướng lãnh trong cuộc đảo chánh vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 là sai lầm cực kỳ to lớn như Max Boot nhận định: “Uy tín chính trị và hiệu quả của chính quyền vốn đã bắt đầu giảm sút trong năm cuối cùng của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị giáng một đòn chí tử và không còn gắng gượng trở lại nổi nữa. Các tướng lãnh lên cầm quyền sau ông Diệm cũng chuyên quyền, không được lòng dân, xa cách và cũng thiếu tính chính danh, thiếu hiệu quả và tham nhũng. Không có một vị tướng nào thành công khi đối đầu với những nguy cơ tạo ra bởi các tín đồ Phật giáo và những người Cộng sản. Trong vòng 4 tháng sau khi ông Diệm bị sát hại, các Phật tử tự thiêu còn nhiều hơn cả 9 năm ông Diệm cầm quyền, nhưng sau cuộc đảo chánh, tin tức về những vụ tự thiêu này không còn là những tin tức hàng đầu trên các báo nữa. Những người Cộng sản cũng mở lại những cuộc tấn công, và những vụ tấn công ở đồng bằng sông Cửu Long đã nhiều hơn trước. Một người lãnh đạo Mặt trận Giải phóng miền Nam, mặt trận của những người Cộng sản, đã nói: “Cái chết của Diệm là một món quà Trời ban cho chúng ta”.

Khi những người Cộng sản xâm nhập càng ngày càng nhiều, chủ trương của ông Diệm nhằm bảo vệ người dân ở nông thôn trong những “ấp chiến lược” – một sách lược bình định đã có hiệu quả với người Anh từ thời cuộc chiến Boer vào đầu thế kỷ 20 và với Chính sách “khẩn cấp” ở Malaysia vào đầu những năm 1950 – đã nhường chỗ cho các đơn vị quân đội quy ước đông đảo. Gánh nặng ngăn chặn những người Cộng sản đã chuyển từ Dinh Tổng thống Việt Nam Cộng hòa sang Tòa đại sứ Mỹ ở gần đó và Bộ chỉ huy Tư lệnh viện trợ ở Việt Nam. Các tác giả của “Tài liệu mật của Lầu Năm Góc” về sau có viết rằng: “Sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông Diệm đã làm cho trách nhiệm của chúng ta nặng nề hơn và chúng ta dấn sâu hơn vào một nước Việt Nam không có nhà lãnh đạo”. Khi những người Cộng sản mở những cuộc tấn công, người kế nhiệm Tổng thống Kennedy là Johnson phải miễn cưỡng quyết định vào năm 1965 rằng ông không còn lựa chọn nào khác hơn việc đưa lính Mỹ vào chiến đấu ở Việt Nam. Trong vòng 4 năm, nửa triệu lính Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam. William Colby, một cựu giám đốc CIA, có nói rằng việc đảo chánh ông Diệm là “sai lầm tệ hại nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam”, một nhận định cũng được cả Tổng thống Johnson và Tổng thống Nixon sau này chia sẻ, dù rằng vẫn có những nhà phân tích cho rằng bi kịch thảm bại của Mỹ ở Việt Nam là điều không thể tránh khỏi, dù còn ông Diệm hay không còn ông Diệm. Cuộc hành trình mà nước Mỹ dấn thân vào không chỉ là một sai lầm, mà còn là một thảm họa sẽ ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Mỹ suốt nhiều thập niên sau đó, và điều này đã có thể tránh được nếu người ta đã nghe theo những lời khuyên của một chuyên gia chống nổi dậy nổi tiếng đã có mặt từ những ngày đầu của nền Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Những khuyến cáo của ông về hiệu quả của cuộc đảo chánh đã không được lưu ý không chỉ trong năm 1963 mà cả những năm trước đó. Ông đã hoài công biện giải về sự cần thiết của việc hạn chế hỏa lực nhắm vào những phần tử nổi dậy để tập trung vào việc giúp cho chính quyền Saigon có uy tín hơn, có tính chính danh hơn và được lòng dân hơn. Dù trong trường hợp nào, chiến thắng cũng vuột khỏi tầm tay của người Mỹ vì Bắc Việt là một đối thủ rất đáng gờm và miền Nam Việt Nam là một đồng minh yếu kém. Nhưng sẽ không là thái quá nếu nói rằng toàn bộ cuộc xung đột, thảm bại quân sự lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ sẽ có một diễn trình khác, ít tốn kém hơn và có nhiều khả năng thành công hơn nếu những lời khuyến cáo của nhân viên CIA và sĩ quan không quân này được lắng nghe. Nhà tiên tri thấu thị kỳ tài, nhà chiến lược không được vinh danh, người cố vấn ngoài cuộc ấy là ai mà muốn đi theo “con đường người ta đã không đi” như ý nhà thơ Robert Frost trong bài thơ “The road not taken”?

THE ROAD NOT TAKEN
Two roads diverged in a yellow wood,
And sorry I could not travel both
And be one traveler, long I stood
And looked down one as far as I could
To where it bent in the undergrowth;
Then took the other, as just as fair,
And having perhaps the better claim,
Because it was grassy and wanted wear;
Though as for that the passing there
Had worn them really about the same,
And both that morning equally lay
In leaves no step had trodden black.
Oh, I kept the first for another day!
Yet knowing how way leads on to way,
I doubted if I should ever come back.
I shall be telling this with a sigh
Somewhere ages and ages hence:
Two roads diverged in a wood, and I—
I took the one less traveled by,
And that has made all the difference.

(Con đường rẽ làm đôi giữa rừng lá vàng,
Biết làm sao, tôi chỉ có thể chọn một mà thôi
Thân phận lữ hành, tôi đứng mãi
Nhìn theo một lối rẽ bên này
Đến tận nơi vệt đường khuất dạng sau bụi cây;
Thế rồi tôi lại bước vào lối rẽ bên kia
Có khác gì đâu, mà có khi lại có lý hơn kìa
Vì cỏ rậm trên mặt đường như thèm muốn người đi;
Nhưng thật ra có đôi chỗ đây kia
Cũng đã thấy dấu mòn như con đường nọ,
Và thế là buổi mai hôm đó
Trước hai con đường lá rơi đầy chưa đen vết chân ai
Tôi đành hẹn sẽ quay lại con đường không đi một ngày nào đó
Nhưng lòng thừa hiểu nào biết đến bao giờ
Đường lại đưa đường làm sao biết trước.
Tôi sẽ kể chuyện này trong một tiếng thở dài
Rằng đâu đó ngày xưa đã lâu lắm rồi:
Con đường rẽ làm đôi giữa một khu rừng, và tôi
Tôi đã chọn lối mòn ít có ai đi,
Và điều đó đã làm đổi thay tất cả)
Trịnh Lữ dịch
Tên ông là Edward Lansdale”)

Ảnh: Tác giả Max Boot, tác phẩm “The road not taken”, Đại tá Edward Lansdale với Tổng thống Ngô Đình Diệm, và với chú chó Poodle

HUỲNH DUY LỘC

Leave A Reply

Your email address will not be published.