Mao Trạch Ðông, cuộc đời chính trị và tình dục: Tôi Vào Đảng
TVN
Hôm đó là ngày 31 tháng Giêng năm 1949. Trong lúc tôi đang hành nghề bác sĩ trên một chiếc tàu buôn ở Sydney, nghe tin Bắc Kinh đã rơi vào tay Cộng Sản không tốn một viên đạn. Năm đó tôi 29 tuổi. Nhân dân Bắc Kinh đổ xô ra đường chào mừng quân “giải phóng”. Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đang được thành lập ở Bắc Kinh. Mặc dầu quân đội Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch vẫn còn đang chiến đấu, mọi người đều biết rằng quân đội Cộng Sản gần như đã nắm chắc phần thắng.
Bắc Kinh là quê hương tôi. Trong suốt 13 năm của thời thơ ấu tôi đã lớn lên bên trong bốn bức tường kín của một gia đình thượng lưu trí thức giàu có. Gia trang đồ sộ của gia đình họ Lý chúng tôi tọa lạc ở phía nam Tử Cấm Thành. Mặc dù ông nội tôi là người giàu có nhưng ông cũng rất hay giúp đỡ người nghèo khó. Dù sao sự giàu sang của gia đình tôi cũng đã làm ngăn cách cuộc sống riêng tư của tôi và thế giới bên ngoài. Mẹ tôi thường ngăn cấm tôi ra ngoài xóm. Tôi được nuôi dưỡng và dạy dỗ để nối nghiệp cha ông làm nghề thầy thuốc.
Chú tôi đã trở nên một bác sĩ và cha tôi không chịu đóng khung trong truyền thống gia đình mà còn đi xa hơn. Năm 1920 ông từ giã mẹ con tôi để sang Pháp theo học chương trình vừa học vừa làm. Cùng đi trong nhóm với ông có Chu Ân Lai. Chu Ân Lai là một người Cộng Sản trong lúc cha tôi lại là một viên chức cao cấp trong chính phủ Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch. Dù không cùng lý tưởng nhưng cả hai đều giữ được tình bạn mãi cho đến ngày cha tôi qua đời. Khi cha tôi trở về ông mang theo người vợ Pháp. Mẹ tôi là một người mẹ truyền thống Trung Quốc, đơn giản, ít học, vẫn giữ tục bó chân và có tấm lòng độ lượng. Dù sao bà vợ Pháp của cha tôi cũng tỏ ra rất lịch sự, trọng lễ nghĩa và đối xử với mọi người, nhất là với tôi, rất tử tế. Bà ta dạy tiếng Pháp ở trường Ðại Học Bắc Kinh. Tánh tình của cha con tôi không hợp nhau chút nào. Truyền thống gia đình chúng tôi là thương yêu và hy sinh cho đồng bào nhưng cha tôi lại thuộc mẫu người tham lam quyền lực và ích kỷ. Không lâu sau khi trở về, ông ta dắt bà vợ Pháp vào Nam Kinh theo Tưởng Giới Thạch. Tôi cảm thấy xấu hổ cho tánh tình cha tôi. Sự thiếu thiện cảm của tôi đối với chính quyền Quốc Dân Ðảng một phần cũng từ những ấn tượng không hay của tôi về cha tôi mà ra.
Giống như hầu hết những thanh niên Trung Quốc cùng thế hệ, tôi lớn lên mang theo tấm lòng yêu nước, niềm kiêu hãnh về gia tài văn hóa, thi ca, nghệ thuật đồ sộ tích lũy từ mấy ngàn năm lịch sử Trung Quốc. Tôi đau lòng khi học về những suy thoái và tủi nhục nước tôi đã chịu đựng trong suốt thế kỷ qua. Tôi học những thất bại nhục nhã trong chiến tranh nha phiến chống lại Anh, kế đến là những cuộc xâm lăng của quân đội Pháp, Nhật, Nga.
Tôi cảm thấy vô cùng hổ thẹn khi nghe người ta nhắc đến câu chuyện về cái bảng cấm đã một thời treo trước cổng công viên Thượng Hải “Cấm người Trung Quốc và chó”. Năm tôi mười một tuổi, quân Nhật chiếm hết miền Bắc Mãn Châu, một chế độ bù nhìn được dựng lên gọi là Mãn Châu Quốc. Mẹ con tôi chạy về phía Nam lánh giặc và tôi theo học tại một trường đạo Tin Lành thuộc phái Methodist của Mỹ lập ra. Trong thời gian đó tôi cũng biết đến chủ nghĩa Cộng Sản qua trung gian của người anh cùng cha khác mẹ đang theo học y khoa ở trường Ðại Học Thượng Hải. Anh ta gia nhập đảng Cộng Sản từ năm 1935. Anh thường kể tôi nghe về tội ác của chủ nghĩa tư bản, rao giảng niềm tin về một xã hội bình đẳng và một thế giới không còn cảnh người bóc lột người. Anh tố cáo chính phủ Quốc Dân Ðảng là tham nhũng thối nát và không thực tình muốn đánh Nhật. Anh tặng tôi ba cuốn sách để đọc: cuốn truyện “Câu Chuyện về Kế Hoạch Năm Năm Lần Thứ Nhất” , cuốn tiểu thuyết “Thép Ðã Tôi Thế Ðấy” của Ostrovsky và một cuốn của nhà báo Pháp Henri Barbusse viết về những đóng góp của Stalin đối với cách mạng. Anh ta dạy tôi rằng chỉ có chủ nghĩa Cộng Sản mới có thể cứu vãn được Trung Quốc và chỉ có cặp bài trùng Mao Trạch Ðông-Chu Ðức mới đủ khả năng lãnh đạo nhân dân đạt đến mục đích đó. Tôi cũng biết Lỗ Tấn, nhà văn mà tôi ưa chuộng nhất cũng say mê lý tưởng Cộng Sản.
Cũng vào thời gian này, năm 1936, một người anh họ giới thiệu tôi một người con gái có tên là Ngô Thận Nhàn, hay Ly Liên, như tôi thường gọi, và tiếng sét ái tình đã đánh trúng trái tim chúng tôi ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên ấy. Ly Liên cũng theo đạo Tin Lành và sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Dù cả mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau và hoàn cảnh chiến tranh đẩy đưa đây đó nhưng chúng tôi vẫn cố xoay sở để được ở gần nhau. Năm 1939 tôi theo học Y Khoa tại Ðại Học Tây Hoa do một dòng truyền giáo Gia Nã Ðại thành lập. Sau khi hoàn tất chương trình nội trú vào năm 1945 nhằm lúc Nhật đầu hàng. Sang năm sau tôi và Ly Liên cưới nhau.
Quốc Dân Ðảng và Cộng Sản đang bước vào giai đoạn nội chiến. Lạm phát đã gia tăng đến mức độ trầm trọng. Trầm trọng đến nỗi một đống tiền chỉ mua được ba quả trứng gà. Giữa giai đoạn khủng hoảng đó, một người bạn học cũ, Danny Hoàng, đang làm ăn khấm khá ở Hồng Kông viết thư khuyến khích tôi qua phụ với anh một tay. Tôi rời Nam Kinh đi Hồng Kông cuối 1948. Thật ra tôi đã không ở lại Hồng Kông. Ngay khi đến tôi tìm được một chân y sĩ cho một chiếc tàu buôn của người Úc, thế là tôi lại lên tàu đi Úc. Tình trạng kỳ thị chủng tộc tại Úc rất là tệ hại nhưng tôi cũng chẳng ưa thích gì Hồng Kông vì phần đất này cũng chỉ là nhượng địa của Anh mà thôi. Vì vậy, khi nghe tin Bắc Kinh lọt vào tay Cộng Sản tôi lại cảm thấy vui mừng, phấn khởi. Tôi tin rằng từ nay ngoại bang sẽ không còn đè đầu cưỡi cổ nhân dân Trung Quốc và nhờ vậy đất nước tôi, một lần nữa, sẽ có một vị trí đáng kính trong cộng đồng nhân loại.
Tháng 4 năm 1949, tôi nhận một lá thư của mẹ tôi gởi từ Bắc Kinh. Kèm theo lá thư của mẹ tôi là một lá thư của anh tôi. Anh ta đã trở về như một người giải phóng quê hương và hiện đang làm việc trong cục Y Tế thuộc Ủy Ban Quân Quản trực thuộc Trung Ương Ðảng. Anh ta vui mừng và muốn tôi trở về phục vụ đất nước như anh viết trong thư “Nước nhà đang thiếu bác sĩ giỏi, chính phủ mới sẽ giao cho em công việc làm thích hợp và gia đình chúng ta một lần nữa lại đoàn viên”. Cuộc sống ở Úc dù thoải mái về tiền bạc nhưng dù sao vẫn là cuộc sống tạm bợ và không có tương lai trong xã hội đầy tệ nạn phân biệt chủng tộc. Sau khi nhận lá thư thứ hai do Bác sĩ Phó Liên Chương hay còn được gọi Nelson Phó, một bác sĩ có uy tín và được kính trọng nhất tại Trung Quốc lúc bấy giờ, khuyến khích và hứa hẹn, tôi quyết định trở về. Tôi ghé Hồng Kông để đón Ly Liên và cùng nàng hồi hương sau 17 năm xa cách.
Thành phố Bắc Kinh vẫn còn vui như trong ngày hội. Sau tám năm bị Nhật chiếm đóng và bốn năm nội chiến, Bắc Kinh vui mừng được giải phóng. Giữa những hoang tàn đổ nát của chiến tranh, thành phố đang sống lại trong niềm tin và hy vọng. Tuy nhiên không ít bạn bè cũ đã cho rằng việc trở về của vợ chồng tôi thật là một hành động ngu xuẩn. Sau khi yết kiến Bác sĩ Phó Liên Chương, tôi trình diện Ban Sức Khỏe thuộc ủy ban Quân Quản. Lúc đó chính phủ chưa chính thức thành lập nên việc quản trị thành phố thuộc quyền của Ủy Ban Quân Quản. Tôi được giao việc làm và được vinh dự xếp vào hạng công nhân viên hạng “được cung cấp tự do” thay vì lãnh lương như một số người khác. Cái vinh dự này, khổ nỗi cũng kèm theo một mối lo là ngoài số lương thực thực phẩm nhà nước cung cấp theo tiêu chuẩn tôi không có đồng lương nào hết, làm sao nuôi nổi gia đình gồm mẹ, hai bà cô, và cả cha mẹ vợ. Nhiệm sở đầu tiên của tôi là bịnh viện Ðại Học Lao Ðộng ở phía bắc Bắc Kinh nơi chăm sóc sức khỏe cho các lãnh tụ cao cấp của Ðảng. Ðiều kiện kỹ thuật y tế tại đây trong giai đoạn đầu thật nghèo nàn. Thuốc thang gần như chỉ có Aspirin, vài hộp thuốc ho và một ít thuốc chống nhiễm trùng.
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, toàn thể dân chúng thức dậy lúc 5 giờ sáng. Chúng tôi được xe vận tải chở tới quảng trường Thiên An Môn để tham dự ngày chính thức ra đời của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Khi tôi đến, quảng trường đã bị chen chúc bởi một rừng người và rừng cờ xí đỏ rực. Mọi người ai cũng hồi hộp và phấn khởi. Mười giờ đúng, Mao Trạch Ðông cùng các lãnh tụ cao cấp của đảng xuất hiện trên khán đài. Ðối với tôi lúc đó, Mao thật sự là vị cứu tinh dân tộc. Ông ta năm mươi sáu tuổi, cao, to và mạnh khỏe. Thay vì mặc quân phục như trong những bức hình mà tôi hay thấy, hôm ấy Mao mặc âu phục theo kiểu áo Tôn Dật Tiên dường như để chứng tỏ vị trí mới của ông ta là Chủ Tịch nước hơn là Chủ Tịch Ðảng. Trong số những lãnh tụ xuất hiện bên cạnh Mao hôm đó có bà Tống Khánh Linh, góa phụ của Bác Sĩ Tôn Dật Tiên. Mao không nói tiếng phổ thông nhưng nói tiếng Hồ Nam, quê hương của ông ta. Nhưng giọng Hồ Nam của Mao cũng rất êm dịu và dễ nghe. Khi Mao vừa cất tiếng “Nhân dân Trung Quốc đã đứng lên” cả một rừng người cùng hô to “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa muôn năm” , “Ðảng Cộng Sản Trung Quốc muôn năm”. Tôi cảm động đến phát khóc. Sau bao năm chịu đựng dưới ách nô lệ của ngoại bang, tổ quốc tôi cuối cùng đã được tự do và độc lập.
Bịnh viện nơi tôi làm việc một thời gian ngắn sau đó được chia làm hai và được di chuyển đến Trung Nam Hải. Tôi nằm trong số đó. Lần di chuyển này là một bước ngoặt quan trọng đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Bịnh viện đã được hiện đại hóa để đủ khả năng chăm sóc sức khỏe cho các lãnh tụ tối cao của đảng và nhà nước. Ngoài Mao, các lãnh tụ như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ðức, Bành Ðức Hoài, Ðặng Tiểu Bình, Trần Vân v.v… đều sống và làm việc ở Trung Nam Hải. Khu vực bí mật và an ninh đến nỗi không ai có thể nhìn qua được bức tường dù đứng bất cứ nơi nào trong thành phố. Thời gian này, tôi được bổ nhiệm vào chức vụ Giám Ðốc Bịnh Viện Trung Nam Hải. Trong chức vụ mới ấy tôi có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho các lãnh tụ cao cấp nhất của đảng và nhà nước Trung Quốc và cả gia đình họ. Tôi nộp đơn xin gia nhập đảng nhưng lý lịch tôi lại cả một vấn đề. Cha tôi là viên chức Quốc Dân Ðảng cao cấp và hẳn nhiên được xếp vào thành phần phản động. Cha vợ tôi là đại địa chủ của tỉnh An Huy nên bị xếp vào thành phần “kẻ thù nhân dân”. Nói chung cả hai vợ chồng lý lịch đều xấu tệ. Thời thanh niên của tôi cũng bị nghi ngờ vì đã có một thời gian được huấn luyện quân sự dưới sự bảo trợ của Quốc Dân Ðảng. Ðảng Cộng Sản gởi nhân viên anh ninh đi điều tra lý lịch tôi và dĩ nhiên trong khi chờ đợi hồ sơ xin gia nhập đảng của tôi cũng bị xếp lại.
Mùa xuân năm 1952, lần đầu tiên tôi gặp gỡ gia đình Mao nhờ việc chữa trị bịnh tâm thần cho con trai Mao là Mao Ngạn Thanh. Cũng trong lần chữa trị cho Mao Ngạn Thanh tôi được gặp gỡ Giang Thanh khi bà ta đến bịnh viện để thăm Mao Ngạn Thanh. Hôm đó bà ta mặc bộ đồ tây giản dị, mái tóc đen búi cao, thân người không đều đặn vì phần trên thân thể có vẻ dài hơn phần dưới, đôi mắt hay chớp dấu hiệu của một người hay nghi ngờ. Người ta đồn Giang Thanh đẹp nhưng theo tôi Giang Thanh có một chút nhan sắc nhưng dứt khoát không thể gọi là đẹp mặc dù năm đó bà ta chỉ 38 tuổi. Khi nói chuyện về trường hợp con trai của Mao, nghe tôi đề nghị việc di chuyển ông ta đến một bịnh viện chuyên khoa tâm thần Giang Thanh nói “Tôi sẽ trình bày ý kiến của Bác Sĩ đến Chủ Tịch Mao”. Giang Thanh bắt tay tôi trước khi ra về.
Nhờ làm việc hăng say, năm đó tôi được toàn thể bệnh nhân đánh giá là bác sĩ hạng A. Việc điều tra lý lịch của tôi cũng hoàn tất và không có gì đáng nghi ngờ. Tháng 11 năm 1952 tôi được chính thức trở thành đảng viên đảng Cộng Sản Trung Quốc. Thực ra tôi chẳng có một căn bản lý thuyết nào về chủ nghĩa Cộng Sản ngoài việc đọc cuốn “Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản” và hai bài báo của Mao. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình là một người Cộng Sản. Trong lúc hầu hết đảng viên ở Trung Nam Hải là những người đã từng vào tù ra khám, theo đảng từ khi tóc còn để chỏm, đã chịu đựng gian nan suốt cuộc trường chinh, còn tôi chẳng có gì để so sánh. Do đó, mặc dù cũng có sự kính trọng lẫn nhau, khoảng cách giữa tôi và họ không thể nào xóa bỏ được.
Tối ngày 2 tháng 10 năm 1954, tôi nhận một cú điện thoại từ Uông Ðông Hưng, một trong những nhân vật cực kỳ quan trọng trong hàng ngũ lãnh đạo. Họ Uông là Giám Ðốc Cục Bảo Vệ Trung Ương của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm anh ninh cho cá nhân Mao Trạch Ðông. Uông Ðông Hưng gia nhập phong trào Cộng Sản khi còn là một cậu bé nhà nông mười tuổi. Bị cảnh sát bắt vì tội đái bậy trên đường phố. Cha ông ta phải hối lộ để cảnh sát thả về. Tình trạng tham nhũng thối nát đó đã để lại trong tuổi đầu đời của họ Uông những ấn tượng xấu về thực tế xã hội và chính trị dưới chế độ Quốc Dân Ðảng. Uông Ðông Hưng bỏ nhà theo cộng sản và họat động bên cạnh Mao Trạch Ðông suốt nhiều năm trước cũng như sau cuộc vạn lý trường chinh gian khổ. Ðiều đặt biệt là Uông Ðông Hưng luôn dành cho những người trí thức một sự kính trọng mặc dù hoàn cảnh chính trị đã thay đổi rất nhiều sau 1949.
Sau khi mời tôi ly trà, Uông bắt đầu ngợi khen tôi về tư cách cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tôi đã thể hiện trong suốt 5 năm qua tại bệnh viện Trung Nam Hải, và sau đó họ Uông nói “Lâu nay, tôi đang cố kiếm một bác sĩ riêng cho Mao Chủ Tịch nhưng rất là khó tìm. Tôi có tham khảo với đồng chí La Thoại Khanh và Dương Gia Khôn, cả hai đều đề nghị bác sĩ. Sau đó tôi có đệ trình ý kiến lên Thủ Tướng Chu Ân Lai và ông ta cũng đồng ý. Và mới hôm qua tôi có báo cáo lên Mao Chủ Tịch. Chủ Tịch cũng đồng ý về đại cương nhưng dĩ nhiên người cũng muốn nói chuyện với Bác Sĩ trước khi quyết định. Tôi mong rằng Bác Sĩ cũng nên chuẩn bị, có lẽ Mao Chủ Tịch sẽ gặp bác sĩ một ngày rất gần đây”. Tôi thật là ngạc nhiên và xúc động vì đó là điều tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Nghĩ lại lý lịch đầy rắc rối của tôi, của cha tôi, của vợ tôi. Không, không thể được. Khi nghe tôi từ chối, Uông bật cười lớn “chuyện lý lịch của Bác Sĩ đã được thông qua rồi và chúng tôi đã quyết định, không có chuyện từ chối.”
Khoảng 3 giờ chiều, ngày 25 tháng 4 năm 1955, một chị y tá hớt ha hớt hãi chạy vào báo cáo với tôi “Nhóm Số Một gọi điện thoại, cần gặp Bác Sĩ ở hồ bơi “. Nhóm Số Một là mật mã ám chỉ Mao Trạch Ðông và bộ tham mưu của ông ta. Tôi đến hơi trễ và thấy Lý Ngân Kiều đang nóng ruột đứng chờ. Họ Lý giục “Lè lẹ dùm tôi chút, ông bắt Mao Chủ Tịch phải chờ”. Khi tôi bước vào Mao đang nằm trần truồng đọc sách trên giường. Một chiếc khăn tắm che kín hạ bộ. Tôi vội vàng xin lỗi cho việc tới trễ. Mao mời tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh và nói “Tôi cũng giống như Trương Chi Ðông, ăn ngủ chẳng theo giờ giấc gì cả, vừa thức dậy là tôi tới đây, mấy giờ rồi?” Tôi đáp” Bây giờ 4 giờ rưỡi”. Mao hỏi tôi thường khi thức dậy lúc mấy giờ, tôi trả lời sáu giờ sáng. Mao cười và nói “Bác sĩ hẳn nhiên lo lắng sức khỏe nhiều hơn”. Mao vừa phì phà vài hơi hút thuốc lá 555 có gắn ống lọc vừa giải thích “Tống Khánh Linh đề nghị tôi xài cái đầu lọc này để giảm bớt chất nicotine. Tôi hút thuốc lâu lắm rồi nhưng không biết chất nicotine có ảnh hưởng gì tôi không?” Nhìn mái tóc bạc của tôi, Mao hỏi “Anh mới hơn 30, sao tóc lại bạc hơn tóc tôi?” Sau khi giải thích chuyện tóc đen tóc trắng là chuyện di truyền, tôi nói “Nếu chỉ nhìn vào tóc thôi tôi quả thật già hơn Mao Chủ Tịch” , nghe nói thế Mao cười to “Anh chỉ nói nịnh”. Mao hỏi nhiều về lý lịch và con đường học vấn của tôi. Ông ta có vẻ ưa chuộng người Mỹ: “Mỹ giúp Tưởng đánh lại chúng ta trong chiến tranh Triều Tiên, nhưng tôi vẫn thích những bác sĩ do Mỹ Anh huấn luyện. Tôi cũng thích học tiếng Anh. Các đồng chí đề nghị tôi nên học tiếng Nga nhưng tôi vẫn thích học tiếng Anh hơn.”
Khi cận vệ dọn cơm chiều, Mao Trạch Ðông mời tôi cùng ăn. Cơm gồm bốn món: Cá, thịt heo xào ớt, một đĩa thịt cừu và một đĩa rau xào với rất nhiều dầu. Vừa ăn chúng tôi vừa tiếp tục trò chuyện. Mao hỏi tôi về chuyện triết lý, tôi nói, “Hồi còn đi học, ngay cả sách chuyên môn tôi cũng đọc chưa hết, đừng nói chi là chuyện triết lý, nhưng tôi có đọc hai bài báo của Chủ Tịch ‘Bàn về thực tiễn ‘ và ‘Bàn về mâu thuẫn’”. Mao mỉm cười nhắc lại chuyện xưa: “Trong chiến tranh chống Nhật, các đồng chí đề nghị tôi giảng về triết học tại Ðại Học Kháng Nhật ở Diên An, tôi nghĩ cần thiết phải phối hợp lý thuyết chủ nghĩa Mác và thực tiễn của Trung Quốc, thế là tôi viết hai bài đó. Tôi dành hai tuần để viết bài ‘Bàn về mâu thuẫn’ nhưng chỉ tốn hai giờ để trình bày”. Trước khi bắt tay tiễn tôi ra về, Mao khuyên tôi nên đọc thêm sách về triết học và tặng tôi cuốn “Biện chứng tự nhiên” của Engels.
Nguyên Tác Hoa Ngữ: Mao Trạch Ðông, Tư Nhân Bác Sĩ Hồi Ký Lục
Tác Giả: Dr. Li Zhisui (Bác Sĩ Lý Chí Thỏa)
Trần Trung Ðạo trích và lược dịch
Trí Việt trích đăng với sự đồng ý của dịch giả