Vài trường hợp bị kỷ luật theo Luật Hồi Tỵ triều Nguyễn
Tôn Thất Thọ
Để quản lý, giám sát quan lại nhằm hạn chế tiêu cực và ngăn chặn tệ nạn quan liêu cát cứ, các vua triều Nguyễn đã đặt ra nhiều qui định chặt chẽ về chế độ quan lại, trong đó luật Hồi tỵ được coi là một trong những quy định quan trọng.
Sử Quốc Triều đã ghi chép rất cụ thể về luật Hồi tỵ với những qui tắc nghiêm ngặt, triệt để. Trên trang thông tin của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, tác giả Hải Yến cho biết đã tìm thấy gần 50 văn bản tài liệu gốc liên quan đến luật Hồi tỵ trong khối Châu bản triều Nguyễn. Các văn bản này đều được viết bằng chữ Hán-Nôm trên giấy dó, có bút tích ngự phê của Hoàng đế.
Luật Hồi tỵ (“Hồi” (回) nghĩa là trở về, “tỵ” (避) là né tránh), với ý nghĩa ban đầu để tránh việc quan lại trở về chốn xuất thân làm quan. Theo từng thời kỳ, khi áp dụng luật Hồi tỵ đã có những thay đổi cho phù hợp nhưng đều nhằm một mục đích là ngăn ngừa tệ tham nhũng của quan lại, giúp chính quyền trung ương kiểm soát quyền lực.
Ở nước ta, luật Hồi tỵ được ban hành đầu tiên dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), thể hiện rõ nét nhất trong Lê triều Hình luật (hay còn gọi là Luật Hồng Đức). Qui định này vẫn được duy trì và hoàn thiện đến triều Minh Mạng (1820-1840) và các triều vua sau đó.
Cũng theo tác giả Hải Yến, trong số gần 50 văn bản liên quan đến luật Hồi tỵ, cụ thể được chia như sau: thời Minh Mệnh 3, Thiệu Trị 5, Tự Đức 25, Thành Thái 4, Duy Tân 7.
Xin được phép trích dẫn nội dung một vài văn bản nêu trên qua bản dịch của Hải Yến:
1- Các khảo quan (quan coi thi, chấm thi) có người thân thích dự thi ở trường mình thì phải báo lên cấp trên để tránh đi. Nếu cố tình không khai báo sẽ bị trọng tội vì cố ý làm trái:
Tờ 195 tập 1 Minh Mệnh, Châu bản triều Nguyễn có bút phê của vua Minh Mệnh là một minh họa cho qui định này:
“Các quan Khâm sai trường thi Hội tâu: Thư lại ty Thanh lại Bộ Hộ là Nguyễn Thừa Tín nguyên sung Đằng lục, có con là Hương cống Nguyễn Thừa Giảng vào dự thi mà (viên ấy) không xin hồi tỵ. Chúng thần đã bắt Nguyễn Thừa Tín, giao cho viên Tuần sát ngoài trường thi giam giữ.
Châu phê: Nguyễn Thừa Tín giao cho Bộ Lại tra xét, chức vụ hiện khuyết giao cho Bộ Hộ nhanh chóng chọn người khác thay, đưa vào trường thi làm việc.
Ngày 28 tháng 3 năm Minh Mệnh 3”
2- Quan lại không những không được làm quan ở nơi trú quán mà còn không được làm quan ở quê vợ, quê mẹ, thậm chí cả nơi học tập lúc còn nhỏ:
“Thần Nguyễn Cấp tâu: Ngày 3 tháng này, kính vâng minh dụ: Thự Bố chánh sứ Bình Định Nguyễn Văn Cấp, cho đổi là Nguyễn Cấp, điều đến làm thự Bố chánh sứ Quảng Trị. Thần kính xét, ngày tháng 5 năm ngoái, phụng Thượng dụ: Bố chánh, Án sát đều là chức vụ quan lớn ở một nơi rất quan trọng. Truyền từ nay về sau, phàm Đình thần đề cử, trừ là quê chính, theo lệ nên hồi tỵ (né tránh) ra, còn lại dù không phải là quê chính, mà có ngụ cư hoặc quê mẹ, quê vợ và lúc nhỏ học ở đó thì phải làm tập tâu rõ đợi chỉ. Thần nguyên khi làm việc ở Kinh, đã lấy người tỉnh Quảng Trị là Nguyễn Thị Tình làm vợ. Vậy thì tỉnh đó là quê vợ. Nay thần chịu ơn được điều đến giữ chức hàm ở tỉnh đó (Quảng Trị), thần không dám im lặng. Châu phê: Sẽ có chỉ riêng
Ngày 28 tháng 11 năm Minh Mệnh 19”
“Bộ Lại tâu: Thự Tuần phủ Trị Bình Nguyễn Đình Hưng dâng sớ trình bày: Chức Lại mục huyện Hải Lăng đang khuyết, xét thấy Phan Khắc Lưu là người mẫn cán, có thể bổ làm Lại mục huyện ấy. Nhưng viên ấy quê quán tại huyện này, theo luật phải hồi tỵ, xin điều bổ làm Lại mục huyện Minh Linh. Lại mục huyện Minh Linh xin điều bổ làm Lại mục huyện Hải Lăng. Bộ thần vâng xét thấy đã thỏa đáng. Cung nghĩ phụng chỉ: Chuẩn y tập tấu. Châu điểm.
Ngày 2 tháng 12 năm Thiệu Trị 6”
3- Các lại dịch, nha môn ở các Bộ, kinh đô và các tỉnh là con, anh em ruột, anh em con chú, con bác thì phải tách ra, đổi bổ đi nơi khác:
“Hộ lý quan phòng Tuần phủ Hưng Yên, Thự Bố chánh sứ Nguyễn Hữu Tố kính tâu: Nay căn cứ tờ bẩm của Thí sai kinh lịch ty Án sát sứ thuộc tỉnh là Ngô Huy Thiêm trình rằng: Viên đó cùng Chánh bát phẩm Thư lại ty Bố chánh sứ Ngô Huy Xuyên vốn là anh em ruột, vào tháng 12 năm ngoái viên ấy được bổ Thí sai kinh lịch, viên ấy là thủ lãnh còn em là Ngô Huy Xuyên hàm Bát phẩm, vậy nên chăng cho hồi tỵ, bẩm xin thẩm xét. Chúng thần phụng xét tháng 6 năm Thiệu Trị 7 đình thần duyệt bàn một tập tâu xin tránh né đã vâng bàn chuẩn định, trong đó có điều khoản: Các nha môn hai ty Bố chánh, Án sát thuộc tỉnh đều có chuyên trách. Trong đó ấn quan ở hai ty đó và các người tá lãnh, phàm công việc có mối quan hệ lẫn nhau nên cho tránh né. Nay người em hiện nhận hàm Bát phẩm thư lại mà viên ấy lại làm Thí sai kinh lịch, không dám coi thường. Xin kính cẩn tâu trình rõ ràng. Về Ngô Huy Thiêm, Ngô Huy Xuyên có nên cho tránh né, cúi đợi Thánh chỉ.
Phụng chỉ: Chuẩn cho Ngô Huy Xuyên tránh né, chuyển cho tỉnh Nam Định bổ nhiệm vào chức khuyết.
Ngày 11 tháng 9 năm Tự Đức 1”
4- Người có quan hệ thông gia, thầy trò không được làm quan cùng một địa phương:
“Ngày 16 tháng này tiếp nhận tờ tư của Đốc thần Hải Yên Phan Tam Tỉnh trình bày: Huyện viên huyện Tiên Minh là Chu Duy Tĩnh bẩm rằng huyện ấy thuộc phủ Nam Sách kiêm quản, viên Tri phủ mới là Nguyễn Khắc Phổ có quan hệ thông gia với viên ấy, theo lệ phải né tránh, bẩm xin giải quyết. Quan tỉnh ấy trộm xét, viên này làm việc ở huyện ấy lâu năm, việc quan và dân đều yên ổn. Chu Duy Tĩnh nghĩ nên lưu lại huyện ấy làm việc. Bộ thần vâng tra lệ định năm Thiệu Trị 4 nghĩ nên cho viên đó được né tránh, xin đem viên ấy cải bổ Tri huyện Lập Thạch. Còn thiếu Tri huyện huyện Tiên Minh xin do bộ thần sẽ chọn cử bổ sung. Châu điểm.
Ngày 24 tháng 10 năm Tự Đức 22”
Bản tấu ngày 22 tháng 12 năm Tự Đức 32:
“Thần là Hồ Trọng Đình tâu: Nay theo Ngự sử đạo Định Yên của bản viện là Trần Chí Tín trình rằng: Xét thấy lệ định là quan viên lớn nhỏ trong ngoài Kinh đô nếu như trong cùng 1 nha, người nào theo học mà tình nghĩa thầy trò mật thiết thì đều lệnh cho né tránh. Nay Chưởng ấn Hình khoa Nguyễn Liên đã là thầy giáo của viên ấy nên xin né tránh. Thần đã sức cho cứu xét là đúng sự thực. Nhưng chiểu theo lệ khoa đạo viện thần là được tự ý kết họp với nhau kiểm soát, xét thấy có khác với các nha khác. Về viên ấy nên chuẩn cho né tránh hay nên lưu lại viện. Dám xin tâu trình chờ chỉ. Châu điểm.”
Tùy từng triều đại, một số qui định của luật Hồi tỵ đã được thay đổi cho phù hợp. Đó là dưới triều Tự Đức, những người dự thi có quan hệ ruột thịt mới phải né tránh còn “anh em của vợ lẽ” thì không cần áp dụng: “Đình thần ban Văn phúc trình: Hôm qua nhận được tờ phiến của quan khoa đạo Lê Lượng do Nội các sao lục trình bày: Vâng sung làm Chủ khảo trường thi Thừa Thiên là Lê Dụ, khoa này có người em vợ lẽ vào dự thi sợ rằng có chút liên quan, khẩn thiết xin chọn cử người khác để giữ nghiêm qui định trường thi. Vâng châu phê: Giao đình thần xem xét, giải quyết. Chúng thần tuân lệnh họp bàn xét duyệt lại. Trộm xét thấy trong điều lệ thi Hương có ghi: Phàm có người thân là anh em thúc bá, chú bác đồng đường và con cháu anh em vào dự thi thì chuẩn cho né tránh. Còn như anh em vợ lẽ thì không thấy đề cập đến. Viên phủ thần Lê Dụ xin tuân theo chỉ trước, vẫn sung làm Chủ khảo trường thi ấy để kịp kì thi. Châu điểm”
Phải nói rằng với quan điểm công khai, minh bạch, luật Hồi tỵ thời Nguyễn đã góp phần ngăn ngừa có hiệu quả trong việc phòng chống tham nhũng trong hàng ngũ quan lại, đây là điều mà hiện nay chúng ta cần phải suy ngẫm.
Qua nhiều kênh thông tin, thực tế đã không ít nơi để xảy ra tình trạng cất nhắc người có quan hệ họ hàng, “đồng hương” “đồng môn” với mình, nhưng kém tài thiếu đức, nhằm tạo ra những “chân rết, ê kíp” để thao túng cơ quan, gạt bỏ người tài… Đó là một trong những nguyên nhân gây ra tiêu cực xã hội, cản trở sự phát triển đất nước…
TÔN THẤT THỌ- Nguồn Chim Việt Cành Nam
—————————————————————————————————————
Tài liệu tham khảo:
– Hải Yến, Triều Nguyễn đã ngăn chặn tệ quan liêu cát cứ bằng cách nào? Trang thông tin điện tử của TTLTQG1.