Charles Simic – nhà thơ người Mỹ gốc Serbia từng đoạt giải Pulitzer, gắn với phong cách siêu thực – qua đời ở tuổi 84.
Theo Guardian, thông tin Simic qua đời được biên tập viên điều hành nhà xuất bản Alfred A Knopf – Dan Halpern – xác nhận hôm 9/1 (giờ Mỹ). Tuy nhiên, ông không cung cấp thêm chi tiết về cái chết của nhà thơ.
Charles Simic được biết đến là một trong những nhà thơ vĩ đại và độc đáo nhất trong thời đại của ông. Ông có nhiều tác phẩm đã đoạt giải, trong đó tập The World Doesn’t End (tạm dịch: Thế giới không hồi kết) đã đem về cho ông giải Pulitzer năm 1990. Ông cũng đoạt giải nhà thơ của Mỹ từ năm 2007 đến năm 2008, một điều khiến ông “đặc biệt xúc động” bởi vì “tôi là một cậu bé nhập cư không nói được tiếng Anh cho đến khi tôi 15 tuổi”.
Ông sinh ngày 9/5/1938 ở Belgrade, thủ đô của Nam Tư. Khi chiến tranh bùng nổ và đất nước ông bị chiếm đóng, ông theo gia đình đến Mỹ vào năm 1954 và bắt đầu theo đuổi sự nghiệp văn chương tại đây.
“Tôi là một sản phẩm của lịch sử. Hitler và Stalin là những ‘hãng du lịch lữ hành’ của tôi. Nếu họ không xuất hiện, chắc cả đời tôi sẽ sống nguyên ở cái góc phố mà mình được sinh ra. Gia đình tôi, cùng hàng triệu người khác đã phải di tản”, nhà văn tâm sự về cuộc đời sống tha hương của mình.
Trước khi bước vào nghiệp viết chuyên nghiệp, Simic từng làm nhiều nghề: Trông cửa hàng, bán sách, bán quần áo. Thuở nhỏ, ông muốn trở thành một họa sĩ và nuôi dưỡng ước mơ ấy cho đến khi nhận ra rằng: “Tôi chẳng chút tài năng hội họa nào cả”.
Năm 1964, Simic kết hôn với nhà thiết kế thời trang Helene Dubin, có hai con. Ông trở thành công dân Mỹ vào năm 1971. Hai năm sau, Simic theo học Đại học New Hampshire, nơi ông tham gia giảng dạy trong 34 năm.
Ông không viết bằng tiếng Anh cho đến tận những năm 20 tuổi và bắt đầu làm thơ sau khi học tiếng Anh được vài năm. Quan điểm hài hước nhưng buồn tẻ trong lối viết được hình thành một phần bởi những năm tháng ông lớn lên ở Nam Tư thời chiến, khiến ông cho rằng: “Thế giới đã cũ, nó luôn cũ”.
Những bài thơ của ông thường rất khó để phân loại theo cách thông thường. Một số độc giả cảm nhận được sự tối giản và siêu thực, trong khi những người khác cho rằng các tác phẩm khá thực tế và bạo lực. Song, dường như họ đều đồng ý rằng các tác phẩm của ông luôn tràn ngập sự hài hước, châm biếm và những ẩn dụ bất ngờ.
Cuốn sách đầu tiên của ông – What the Grass Says – ra mắt năm 1967. Hai năm sau, ông viết tiếp cuốn Somewhere Among Us a Stone is Taking Notes and Dismantling the Silence. Một bài đánh giá của tờ New York Times từ năm 1978 đã ghi nhận tài năng của ông trong việc truyền tải “sự phức tạp của nhận thức và cảm xúc chỉ trong một vài dòng”.
Một bài thơ của ông:
NHỮNG QUE DIÊM
Tối mò khi tôi bước
Trên phố
Nhưng rồi ông xuất hiện
Người chơi diêm
Trong những giấc mộng của tôi
Tôi chưa bao giờ thấy
Mặt ông mắt ông
Sao bao giờ tôi cũng
Phải chậm chạp thế nhỉ
Và những que diêm đã cháy
Xuống sát ngón tay ông
Nếu là một ngôi nhà
Chỉ kịp nhìn một thoáng
Nếu là một đàn bà
Chỉ một cái hôn thôi –
Rồi bóng tối chập lại
Thì tôi có thể đang ăn tối
Đang đắp một quả tuyết cầu
Đang được Giáo Hoàng La Mã
Nhổ cho mấy cái răng
Hoặc đang trần truồng chạy
Trên một bãi chiến trường
Người chơi diêm
Biết mà không nói
Ông chỉ thích những trò chơi bỏ dở
Những thành phố khó nhận mặt
Nhũng tình yêu lớn ra đi
Trong một hơi thổi phù
Hoàng Hưng dịch (trong tập 15 nhà thơ Mỹ thế kỷ XX)