Nguyễn Tri Phương, danh thần triều Nguyễn

Huỳnh Duy Lộc

0 894

Nguyễn Tri Phương tên thật là Nguyễn Văn Chương, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân (ngày 9 tháng 9 năm 1800), quê ở làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Tên Nguyễn Tri Phương của ông do vua Tự Đức đồi vào năm 1850 lấy ý từ câu “Dõng thả Tri Phương”, nghĩa là “dũng mãnh mà lắm mưu chước”.

Xuất thân trong một gia đình nông dân, ông không được học hảnh nhiều, bắt đầu làm thư lại ở huyện, do tài năng mà được tiến cử với vua Minh Mạng, được thu dụng và lần lượt giữ nhiều chức vụ trọng yếu suốt 3 triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Năm 1823, ông làm điển bộ (bí thư ở nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi thừa chỉ ở Nội các, 2 năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ (1827), rồi Hồng lô tự khanh (1831).

Năm 1832, ông tham gia phái bộ sang Trung Quốc thương lượng về quan hệ thương mại. Năm 1835, ông được cử vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng tổ chức lại việc khẩn hoang. Năm 1840, ông được bổ làm tuần phủ Nam – Ngãi (Quảng Nam – Quảng Ngãi)trông coi việc bố phòng cửa biển Đà Nẵng, thăng Tham tri bộ Công. Năm 1844, vua Thiệu Trị cử ông làm Tỏng đốc An – Hà (An Giang và Hà Tiên), rồi Tổng đốc Long – Tường (Vĩnh Long và Định Tường). Năm 1853, ông làm Kinh lược sứ Nam Kỳ.

Ngày 1.9. 1858, tàu chiến Pháp – Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Rigault de Genouilly nổ súng, đánh chiếm Đà Nẵng. Quân và dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, ngăn bước tiến của giặc. Đô thống Lê Đình Lý trúng đạn, hy sinh. Vua Tự Đức điều Nguyễn Tri Phương, khi ấy đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ, ra làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam. Ông đã bố trí lại lực lượng phòng thủ và đề ra phương thức tác chiến phù hợp với tương quan lực lượng giữa Việt Nam và Pháp lúc bấy giờ. Ông chủ trương tránh những mũi tiến công chính diện của địch,bao vây, đánh chặn địch ở mé ngoài, liên tục phục kích tiêu hao lực lượng của địch, thực hiện chủ trương vườn không nhà trống, cô lập địch với dân.

Diễn biến tình hình quân sự ở Đà Nẵng sau đó đã minh chứng tài thao lược và chiến thuật đánh địch của ông là hợp lý, đúng đắn. Đầu tháng 2 năm 1859, Rigault de Genouilly buộc phải chuyển hướng tiến công vào Gia Định. Tháng 7 năm 1860, Nguyễn Tri Phương lại được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ. Trong trận đánh ngày 25.10.1861, quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Charner tấn công Đại đồn Chí Hòa (còn gọi là Đại đồn Phú Thọ), người em ruột của ông là Tán lý Nguyễn Duy tử trận, còn ông bị thương, Đại đồn Chí Hoà thất thủ. Ông bị giáng chức lần nữa xuống làm Tham tri, sau đó được vua Tự Đức cho khôi phục hàm Binh bộ Thượng thư Đổng nhung quân vụ Biên Hòa.

Năm 1862, Nguyễn Tri Phương được cử ra làm Tổng thống quân vụ Hải An. Năm 1871, ông được điều về kinh, giữ chức Lại bộ Thượng thư. Tháng 7 năm 1872, vì giặc giã quấy nhiễu nhiều nơi ở miền Bắc, một lần nữa ông lại được cử làm Bắc Kỳ Khâm mạng Tuyên sát đổng sức đại thần thay vua để xử lý việc quân.

Ngày 19.11.1873, Francis Garnier theo lệnh của Soái phủ Nam Kỳ đánh úp thành Hà Nội và chỉ sau mấy giờ thì hạ được thành. Con trai ông, phò mã Nguyễn Lâm, trúng đạn chết tại trận, còn ông bị trọng thương. Giặc Pháp đưa ông xuống tàu để cứu chữa, nhưng ông kiên quyết từ chối. Chúng đem thuốc băng bó, ông giật đi, vứt bỏ;chúng đưa thức ăn vào miệng, ông đều phun ra, không chịu nuốt, mà nói:”Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng ung dung mà chết vì việc nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu (20.12.1873).

Nhà nghiên cứu Thái Hồng (Nguyễn Tri Hồng Hạnh), hậu duệ của Nguyễn Tri Phương, đã biên soạn tác phẩm “Nguyễn Tri Phương (1800-1873)” ấn hành năm 2001.

HUỲNH DUY LỘC

Leave A Reply

Your email address will not be published.